Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn hóa phương Đông – O đến Q

Điển tích, thành ngữ và đặc ngữ trong văn hóa phương Đông – O đến Q
Diệp Minh Tâm
Tháng 4-2021

Giới thiệu

Trong khi đọc tài liệu lịch sử và văn học nghệ thuật kể cả cổ thi, tôi thường tìm hiểu thêm về những điển tích, thành ngữ, nhân vật, địa danh và đặc ngữ, rồi qua đó lại say mê với những mẩu chuyện có liên quan. Vì thế, tôi tập hợp thông tin vào một hồ sơ để tiện tham khảo khi cần.

Qua bao năm tháng thu thập tư liệu để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, tôi quyết định cập nhật thông tin, bổ sung hình ảnh và nguồn để đưa lên trang blog của mình, đưa ra bốn phương sau khi góp nhặt từ bốn phương. Sự lựa chọn chủ đề là do ngẫu nhiên, thấy gì hay hay thì thu thập, chứ không tìm kiếm có hệ thống. Vì lý do này mà bạn đừng thắc mắc tại sao bài viết đề cập đến người này mà bỏ sót người kia, hoặc tại sao nêu ra quyển sách này mà phớt lờ quyển sách nọ.

Tôi không ghi tất cả các nguồn tham khảo. Nhưng việc này nhiều khi không có ý nghĩa lắm bởi vì cùng một câu chuyện có thể có những dị bản, và các nguồn thường phát tán và đăng lại nguồn trước nên khó truy ra nguồn nguyên thủy. Nhất là khi bài viết không có tên tác giả và không ghi năm đăng tải. Lại có tài liệu ghi nguồn không rõ ràng, ví dụ như chỉ ghi tựa sách và tên nhà xuất bản, trong khi không có tên tác giả và năm xuất bản. Tôi không ghi nguồn như thế để tránh người độc giả bị rối trí vì những nguồn mơ hồ, chẳng hạn như khi tư liệu thứ hai ghi cùng tựa sách nhưng nhà xuất bản khác và tư liệu thứ ba ghi cùng tựa sách nhưng có tên tác giả. Ta không thể nhận ra đó là cùng một sách hoặc hai, ba sách khác nhau. Thông tin trên Internet xô bồ là vậy!

Có thể xem đây là một từ điển bách khoa được giới hạn trong văn hóa Việt Nam và Trung Hoa nói riêng, văn hóa Á Đông nói chung, được tổng hợp với những mục đích sau:

1/ Xác định nghĩa gốc của từ ngữ mà trong nhiều trường hợp khác với cách người ta thường hiểu, ví dụ như những cụm từ: ba quân, can qua, cạn tàu ráo máng, dùi đục chấm mắm cáy, đại nghĩa diệt thân, được voi đòi tiên, bình khang, giang hồ, nhạn, mạnh thường quân, tang thương…

2/ Giải thích điển tích nhằm giúp ta thưởng thức thơ văn được trọn vẹn hơn, ví dụ như những điển tích trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du.

3/ Làm sáng tỏ một số ý niệm như cây quế giữa rừng, cột đồng Mã Viện, dùi đục chấm mắm cáy, hạc nội mây nhàn…

4/ Tổng hợp quan điểm đa chiều trong những chủ đề gây tranh cãi hay nghi vấn, hoặc đưa ra hình ảnh chân thực khác với phim ảnh, như Bao Công, Đường Bá Hổ, Hòa Thân, Mạc Đăng Dung, Nhà Nguyễn, Phan Thanh Giản, Phạm Quỳnh, Tào Tháo, Tần Thủy Hoàng, Tô Hiến Thành, Trần Thủ Độ, Trương Vĩnh Ký, Võ Tắc Thiên…

5/ Đưa ra những mẩu chuyện hoặc được ghi trong chính sử hoặc được lưu truyền từ đời này qua đời khác, với giá trị về văn hóa hoặc lịch sử, luận lý, triết học, v.v.

6/ Mang đến sự kết hợp giữa thơ văn và họa (trong thơ văn có họa, trong họa có thơ văn) và kết hợp thêm âm nhạc nghệ thuật với thơ văn nếu có.

7/ Đơn giản là mang đến kiến thức tổng quát.

Tùy bạn xem qua để có thông tin sơ bộ, từ đó bạn có thể tự tìm hiểu thêm.

Các đề mục

Oa Ngưu

Giống động vật nhỏ trong truyền thuyết Trung Hoa, hình tròn dẹt, mình mềm, đầu có sừng, ngọn sừng có mắt. Trang Tử có nói “Có thể dựng nước trên sừng con Oa Ngưu”, ý nói sự bé nhỏ.

Ô Quan Chưởng

Xem: Thành Hà Nội.

Óc Eo

Xem: Văn hóa Óc Eo.

Ô Giang

Sông Ô ở Cai Hạ, Trung Hoa, nơi Hạng Vũ bị quân Lưu Bang và các tướng lãnh dồn tới đường cùng, và Hạng Vũ tự sát chết cùng 28 tướng sĩ cuối cùng.

Ô Y hạng

Ô Y là tên đất, hạng có nghĩa là con đường, Ô Y hạng là con đường ớ đông-nam thành Nam Kinh, gần cầu Chu Tước. Ðời Nhà Tấn, các gia đình quyền quý như Vương Ðạo, Tạ An đều ở đó. Gia đình những người này thường mặc áo đen (ô y) nên mới có địa danh ấy.

Lưu Vũ Tích có làm một bài tứ tuyệt về Ô Y Hạng đến nay nhiều người còn truyền tụng.

Ô Y Hạng – Lưu Vũ Tích

Chu Tước (A) kiều biên dã thảo hoa
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương Tạ
(B) đường tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tính gia
.

(A) Chu Tước: Cầu bắc qua Sông Tần Hoài, đi vào trung tâm Ngõ Ô Y phải qua cầu này. Xưa trên cầu, Tạ An cho xây một ngôi lầu có trang trí hai con chim sẻ bằng đồng.

(B) Vương Tạ: Vương Đạo 王導 và Tạ An 謝安 là hai thế gia vọng tộc ở Ngõ Ô Y. Vương Đạo là khai quốc công thần đời Tấn, Tạ An là tướng chỉ huy trận chiến Phì Thủy.

Ô Y Hạng – Phụng Hà

Bên Cầu Chu Tước cỏ đơm hoa
Ô Y ngõ vắng, bóng xế tà
Én cũ lâu đài nhà Vương, Tạ
Lưu lạc bay vào chỗ dân gia.

ôm cây đợi thỏ

Sách Hàn Phi Tử: Có người nước Tống (1113–286 tCN) một hôm đang cày ruộng, trong ruộng có một cây to, một con thỏ chạy đâm vào cây mà chết. Thấy vậy, người đó bèn bỏ cày, chạy lại ôm cây mong được thỏ nữa.

Chuyện này chê người chí mọn không biết phân tích và chủ động, cứ cứng nhắc làm việc một cách mù quáng, thụ động.

(Ðừng lầm điển này với ấp cây.)

Ôn Công: tức Tư Mã Quang.

Tống sử: Tư Mã Quang rất chăm đọc sách, sợ mình nằm ngủ quên nên đẽo chiếc gối tròn để khi nằm đọc sách, nếu có buồn ngủ thi chiếc gối tròn lăn đi mà sực tỉnh dậy đọc tiếp.

Ôn Phi Khanh

Tên thật là Ôn Đình Quân (chữ Hán: 溫 庭 筠, ?  – 870), Phi Khanh là biểu tự, người thời Đường trong lịch sử Trung Hoa. Ông có tư chất thông minh, làm từ phú rất hay nhưng có tính phóng đãng, thường cùng bọn con em vô lại các nhà quý tộc ra vào nơi ca lâu, rượu chè, bài bạc, say đắm nữ sắc, vì thế bị các sĩ đại phu đương thời khinh rẻ. Người đời sau có cái nhìn công tâm hơn: chỉ thưởng thức thơ chứ không để ý đến đời tư của Ôn Đình Quân.

Thơ Ôn Đình Quân phần nhiều viết về tình yêu, lời thơ rất kín đáo, tao nhã. Riêng ông viết thể từ khá diễm lệ, lại sáng tác được nhiều điệu mới, ảnh hưởng nhiều đến đời sau.

Dao sắt oán – Ôn Đình Quân

Đây là một trong những bài thơ Đường nổi tiếng nhất.

Dao sắt ở đây là một nhạc cụ tuyệt đẹp được khảm bằng ngọc bích, có âm thanh ai oán thường gắn với nỗi niềm chia tay trong thơ cổ. Tựa đề Dao sắt oán ngụ ý nỗi bất bình của phụ nữ khi chia tay.

Băng điệm (A) ngân sàng (B) mộng bất thành
Bích thiên như thủy, dạ vân khinh
Nhạn (C) lai viễn quá Tiêu Tương (D) khứ
Thập nhị lâu (E) trung nguyệt tự minh.

(A) băng điệm: chiếu trúc mát.

(B) ngân sàng: nghĩa đên là giường bạc, chỉ chiếc giường đầy ánh trăng.

(C) nhạn: nghĩa gốc ngày xưa là ngỗng trời, thường được thể hiện trong thi văn cổ. Ngày nay từ này thường được dùng để chỉ chim én, có lẽ do nhầm lẫn từ tên điểu học “nhàn” thuộc nhóm chim biển.

(D) Tiêu Tương: Sông Tiêu và Sông Tương chảy vào Động Đình Hồ ở Hồ Nam. Trong văn học, Tiêu Tương chỉ nỗi niềm tương tư giữa trai gái.

(E) thập nhị lâu: theo tích mười hai tòa lầu do Hoàng Đế thời cổ đại cho xây để đón tiếp thần tiên. Sau này có nghĩa là nơi ở của phụ nữ.

Nỗi oán của đàn ngọc – Lê Nguyễn Lưu

Thao thức giường ngà trải nệm băng
Trời xanh như nước, tối mây giăng
Tiếng nhàn xa vượt Tiêu Tương mất
Vằng vặc mười lầu ngợp ánh trăng.

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 1997.

Dương liễu chi kỳ 2 – Ôn Đình Quân
Nam Nội tường đông ngự lộ bàng
Dự tri xuân sắc liễu ti hoàng
Hạnh hoa vị khẳng vô tình tứ
Hà thị tình nhân tối đoạn tràng
.

Dương liễu chi kỳ 2 – Trương Việt Linh
Đường ngự thành đông Nam nội
Sắc xuân tơ liễu óng vàng
Hạnh hoa há không hữu ý
Tình nhân sao khéo đau thương!

Ông Ba mươi

Ông Ba mươi là thuật ngữ dân gian gọi con hổ một cách kính trọng. Có hai lý giải cho thuật ngữ này (vnexpress.net).

Tên gọi Ông Ba mươi bắt nguồn từ một câu chuyện cổ tích Việt Nam. Nhà vua quy định mỗi khi ai bắt giết được hổ đều được thưởng 30 quan tiền vì loại trừ được một con vật hung dữ. Nhưng đồng thời cũng phạt đánh 30 trượng để oan hồn con vật không tức giận. Từ đó, do khiếp sợ nên không ai dám gọi thẳng tên hổ mà chỉ kêu “Ông Ba mươi”.

Đến thời Nhà Nguyễn, người ta lại kể một câu chuyện khác rằng ai bắt sống được hổ sẽ được thưởng 30 quan tiền. Ngược lại, nếu giết hổ sẽ bị phạt 30 quan tiền và đánh 30 roi. Sở dĩ có điều luật này bởi trước khi lên ngôi, vua Gia Long – Nguyễn Anh lúc bị quân Tây Sơn truy đuổi vào rừng, nếu không nhờ một con hổ đem thịt đến sẽ không có thức ăn để sống qua ngày. Vua chịu ơn hổ và sau khi lên ngôi, nhà Vua cho lập miếu thờ hổ tại vùng Mô Xoài thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ông Đùng, Bà Đà

Thần thoại kể rằng vào thời Ngô Quyền (trị vì 939–944) có hai chị em sinh đôi, Bà Đà là chị, ông Đùng là em. Từ khi sinh ra, hai người có tầm vóc cao to khác người. Do bị hàng xóm chê bai, bố mẹ họ đem bỏ họ ngoài bìa rừng. Càng trưởng thành, họ lại càng cao lớn khác thường nên không tìm được ai để kết hôn. Hai chị em buồn bã, chia tay nhau bỏ đi xa và hẹn rằng nếu gặp ai có cùng vóc dáng ở trên đường thì sẽ lấy người đó. Số phận run rủi cho họ cuối cùng lại vẫn gặp nhau mà không gặp được ai khác. Họ cho rằng đó là định mệnh, nên đồng ý lấy nhau.

Nhưng khi động phòng, Bà Đà cảm thấy tội lỗi nên trốn sang ngôi đền bên cạnh nhà. Ông Đùng phải đi đón về. Ngày hôm sau, bà lại đi trốn tiếp và ông lại phải đi đón. Cứ như vậy, đến lần thứ ba, khi Ông Đùng đón bà trở về nhà thì gặp một con hổ dữ ra chặn đường. Ông Đùng vốn là một lực sĩ, ra đánh đuổi con hổ nhưng không được. Mẹ con một bà lão nghèo (sau này dân gọi là hai mẹ con nhà Khó) đang câu ếch ở đấy bèn ra giúp sức và đánh đuổi được con hổ. Lần này về nhà, Bà Đà không trốn đi nữa.

Hai người lấy nhau được mấy ngày thì tin đồn lan tới kinh kỳ và vua nghe được. Vua xuống chiếu bắt tội hai người phạm tội loạn luân và truyền đao phủ hành hình vào lúc nửa đêm. Sau đó, xác ông bà được vứt xuống một cái ao gần đấy. Hai ông bà rất linh thiêng nên người dân lập đền thờ phụng và hàng năm mở hội để diễn lại sự tích của ông bà ngày xưa.

Vào ngày hội, dân làng làm hai hình nhân bằng nan tre thật to, phết giấy tô mặt, dán quần áo. Ông Đùng râu ba chòm, còn Bà Đà má bầu bĩnh, mặt phinh phính. Hai hình nhân này được dẫn đi các ngả, sau đó lại dẫn đi vòng quanh làng nhằm nhắc lại sự tích ông bà đi vòng quanh trái núi tìm người kết duyên. Sau cùng, hai hình nhân cũng gặp được nhau. Lúc gặp nhau, những người khênh hình nhân cố gắng sao cho những tay nan vùng vẫy tỏ sự vui mừng. Sau đó, người ta cho hai hình nhân đó sáp lại gần nhau, đụng chạm nhau, ôm nhau với điệu bộ hoan lạc của cuộc ân ái. Lúc ấy, trống đánh dồn dập, mọi người hò reo ầm ĩ. Sau tiếp, hình nhân được tách rời nhau và được rước về làng. Trong đám rước có người đóng vai lực sĩ, cọp và mẹ con nhà câu ếch.

Trong lễ hội còn diễn ra nghi thức xử tội ông bà. Cuộc xử tội kín do ban tổ chức thi hành, dân làng không được đi xem và không dám đi xem. Nửa đêm, những người xử tội mặc áo dấu, bôi mặt đen đứng xung quanh hình nhân. Ông tiên chỉ đọc bản cáo trạng trước hai hình nhân, nhắc lại tội loạn luân và chiếu chỉ vua ban. Sau đó, cuộc hành hình bắt đầu. Người ta cắt đầu hình nhân, sau đó vứt xác xuống ao đầu làng. Lễ hội kết thúc.

Dị bản kể hai anh em nhà nọ được thần linh báo trước về một trận đại hồng thủy, nên chui vào quả bầu mà sống sót. Khi nước rút đi, họ chui ra nhưng không tìm thấy ai xung quanh, bèn chia tay nhau đi hai hướng vòng quanh quả núi, hẹn rằng nếu gặp ai trên đường đi thì sẽ kết hôn với người đó. Hai người đi quanh quả núi không gặp một ai mà cuối cùng lại gặp nhau nên đành phải lấy nhau để duy trì nòi giống. Sau khi họ chết đi, được con cháu lập đền thờ phụng và hàng năm mở hội vào ngày mất của họ, làm hình nộm để tưởng nhớ, gọi là Ông Đùng, Bà Đà.

Còn có một sự tích khác. Làng Quang Lang, còn được gọi là Làng Góp, thuộc Xã Thụy Hải, Huyện Thái Thụy, Thái Bình, là một làng ven biển có nghề làm muối, đánh cá từ lâu đời. Tương truyền vào đời Trần, Làng Quang Lang có ông bà Nguyễn Nhật (có tài liệu ghi là Nguyễn Hiền) là người phúc hậu, được một thầy địa lý giỏi tìm cho một đám đất để đặt mộ tổ ở cánh đồng Nga My. Vào một đêm trăng sáng, bà Nguyễn Hiền nằm mộng thấy ánh trăng soi vào cửa số và sau đó, thấy mình có thai. Đến kỳ mãn khai, vào ngày rằm tháng Giêng năm 1280, bà sinh được một cô gái xinh đẹp, đặt tên là Nguyệt Ảnh để nhớ lại giấc mộng về ánh trăng đêm nào.

Dù rất vất vả nhưng ông bà cố gắng nuôi dạy cô con gái, và bù lại cô gái rất thông minh, sáng dạ, 13 tuổi đã đọc thông viết thạo. Như những đứa trẻ khác, Nguyệt Ảnh thường giúp bố mẹ những công việc của nhà nông và chạy nhảy, chơi đùa cùng đám bạn bên cánh đồng muối trong làng.

Chẳng mấy chốc, Nguyệt Ảnh trở thành cô gái nết na, xinh đẹp nên nhiều chàng trai tìm đến xin kết bạn trăm năm. Song có một điềm lạ là cô đi đến đâu thì cũng xuất hiện một đám mây trên đầu che nắng, nên cô không thể làm nghề muối vốn cần nhiều ánh nắng. Vì thế, những chàng trai đến với cô cũng thưa dần, còn cô chẳng dám ra khỏi nhà vì sợ người làng cho là điềm không lành mà oán trách.

Bố mẹ cô rất buồn nên dành dụm mua cho con một con thuyền nhỏ để cô đi bán muối. Trong một lần đi buôn, thuyền của nàng đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long. Vừa hay đúng vào dịp Vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Toán quân lính nhà Vua đi qua bến thuyền nàng đậu nghỉ, khát nước, họ lại gần xin, bỗng lấp ló trên thuyền trông từ xa thấy một cô gái xinh đẹp nhan sắc như hoa, phong thái dịu dàng khác người, liền lập tức về tâu với nhà Vua.

Cơ duyên như trời định, bước chân từ bến nước thuyền quê, nàng được nhận vào cung. Nàng được vua rất sủng ái cho làm Tam phi, ít lâu sau thì mang thai. Nhưng hậu cung xưa nay vốn không ít chuyện thị phi. Chẳng may Tam phi gặp tai oan, bị kẻ gian hãm hại, thai nhi đã trải qua 9 tháng 10 ngày mà vẫn không sinh nở được.

Vua Trần Anh Tông quyết định đưa nàng về quê ngoại, hy vọng những làn gió mát của biển sẽ cứu sống được Tam phi. Thấy nàng chiều nào cũng ngồi nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ làm người nộm, hái hoa mỏ gà, đứng vây quanh nhảy múa để nàng vơi bớt nỗi buồn. Nhìn lũ trẻ làng quê nhảy múa, nàng rất vui, nhưng bệnh tình không thể qua khỏi. Một ngày, nàng nhếch mép cười, rồi đột ngột qua đời, hôm ấy đúng vào ngày 14 tháng 4 âm lịch năm Mậu Tuất. Nhà Vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần.

Dân Làng Quang Lang xót thương, tôn thờ làm Bà Chúa Muối. Từ bao đời nay, hàng năm cứ vào ngày 14 tháng 4 âm lịch dân Làng Quang Lang lại tổ chức lễ hội tại đền thờ Bà Chúa Muối, hay còn gọi là lễ hội Ông Đùng Bà Đà. Dù bận bất kỳ công việc gì, ra khơi đánh bắt hải sản hay đi làm ăn xa, những người con quê hương vẫn thu xếp công việc trở về chăm lo việc làng. Lễ hội thường diễn ra trong 3 ngày với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng như: dâng hương, diễu hành rước Chúa, ăn cơm chay, văn nghệ, các trò chơi dân gian, và không thể thiếu được lễ rước ông Đùng và phá Đùng.

Trước ngày hội làng, người dân Quang Lang chuẩn bị cho tục múa Ông Đùng, Bà Đà khá công phu. Họ lấy nia vẽ mặt ông Đùng, bà Đà, rồi làm thân ông bà bằng những rọ tre đan sơ sài theo kiểu mắt cáo, thân hình cao từ 1,2 đến 1,5 m, đường kính phía dưới rộng đủ cho một người chui vào. Ngoài ra còn có một số hình nộm trẻ con, có trai có gái tượng trưng cho con cái của Ông Đùng Bà Đà. Trên tai của Bà Đùng và con gái được đeo hoa mào gà đỏ, dân làng Quang Lang vẫn gọi là hoa Ông Đùng. Quần áo Ông Đùng Bà Đà được may bằng vải buồm cũ. Khi múa, người múa chui vào thân hình nộm đi bằng cà kheo thành chân Ông Đùng Bà Đà.

Trong các nghi lễ của lễ hội, lễ rước Ông Đùng và phá Đùng được người dân đặc biệt thích thú. Dân làng quây kín trước cửa đền để xem người lớn vào vai Ông Đùng, Bà Đà và trẻ con đóng Đùng con cùng nhảy múa.

Khi múa, các hình nộm lúc thì nghiêng ngả, hết quay sang phải rồi lại quay sang trái, cho ông bà có cơ hội bày tỏ tình cảm với nhau. Đoàn múa rời sân đền đi một vòng quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung quanh bố mẹ. Dân làng nhộn nhịp theo sau, vừa đi vừa hát múa.

Khi đoàn rước Đùng quay trở lại sân đền cũng là lúc phá Đùng, dân làng vội vã xô nhau vào để lấy một nan tre trên hình nộm ông bà. Tất cả mọi người ở Quang Lang đều quan niệm: nếu ai may mắn lấy được nan tre đem về gối đầu giường thì các cháu nhỏ ngủ khỏi giật mình, không bị bệnh tật, cắm vào ruộng, vườn thì cho cây sai quả, mang lên trên thuyền đi ra khơi thì sẽ đánh bắt được nhiều tôm cá…

Thụy Hải cũng là nơi duy nhất trong cả nước có phủ và đền thờ Bà Chúa Muối. Trải qua mấy trăm năm nay, lễ hội Ông Đùng Bà Đà vẫn giữ nguyên được bản sắc độc đáo vốn có của nó.

Tục thờ Ông Đùng, Bà Đà gợi dậy tiềm thức xưa về người khổng lồ. Dưới quan điểm của đạo đức phong kiến, những lễ hội này không được chấp nhận và bị coi là thờ “tà thần” hoặc “dâm thần”. Người dân phải biến đổi nội dung sao cho phù hợp với quan niệm của Nho giáo. Người ta không công khai nói đến Ông Đùng Bà Đà với sự loạn luân nữa, mà chuyển họa thành Thiên Tiên và Địa Tiên (trong lễ hội ở Hưng Yên), hoặc đổi thành sự tích Bà Chúa Muối (ở Thái Bình). Do vậy, ý nghĩa thực của lễ hội bị chìm lấp dưới thần tích về những nhân vật lịch sử. Dần dần, những ý nghĩa ban đầu mất đi, những dấu tích chỉ rơi rớt lại qua một số chi tiết trong lễ hội (như tục bắt hổ trong lễ hội ở Hưng Yên, hay tục rước Đùng trong lễ hội ở Thái Bình)…

Với người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, tục thờ Ông Đùng, Bà Đà gắn với tín ngưỡng phồn thực, có từ khi nào không rõ và được duy trì đến ngày nay, mặc dù có nhiều sự biến đổi và có những biến thể ở từng vùng miền, có nơi gọi là Ông Cồ Bà Cộc, hoặc Ông Đực Mụ Cái…

Nguồn: Diệu Hương (2020), Phạm Thiệu – Nguyễn Cường (2013), thaibinhtv.vn (2016).

Ông già Ba Tri

Một người có thật, tên Thái Hữu Kiểm hay Cả Kiểm, sống vào đầu thời Minh Mạng (trị vì 1820-1841). Ông Thái Hữu Kiểm là cháu nội ông Thái Hữu Xưa, gốc ở Quảng Ngãi, sinh cơ lập nghiệp ở Ba Tri từ thế kỷ 18. Ông Xưa từng có công giúp chúa Nguyễn Ánh, được phong chức “Trùm cả An Bình Đông” Quận Ba Tri. Năm 1806, ông Kiểm dựng Chợ Trong bên cạnh Rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này có nơi làm ăn sinh sống. Khi đó có ông Xã Hạc ở Chợ Ngoài chơi ép, đắp đập ngăn khiến cho ghe thuyền từ Sông Hàm Luông không thể vào Chợ Trong. Ông Kiểm bất bình, kiện lên phủ Huyện, phủ Huyện xử Chợ Trong thua với lập luận: “Mỗi làng đều có quyền đắp đập trong địa phận làng mình”.

Cả Kiểm cùng dân buôn bán ở Chợ Trong không chịu phán quyết trên. Ông liền cùng hai ông già nữa là Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi, khăn gói đi bộ từ Ba Tri ra Huế (lộ trình khoảng hơn 1000 cây số) để đưa đơn lên nhờ vua phúc thẩm lại phán quyết bất công kia. Cuối cùng, sau một thời gian dài dò đường đi, ba ông già tới nơi. Lúc này Gia Long mới băng hà, Minh Mạng vừa lên ngôi. Vua thụ lý rồi xử cho dẹp bỏ đập, với lý do rạch là rạch chung, là tuyến giao thông đường thủy chung cho cả Chợ Ngoài lẫn Chợ Trong.

Từ sau lần kiện tụng thành công đó, dân Bến Tre gọi ông Cả Kiểm là “Ông già Ba Tri”.

Sau này, thành ngữ “Ông già Ba Tri” trở thành phổ biến trong dân gian, để chỉ người tuy có vị thế thấp nhưng cứng cỏi, cương quyết tranh đấu cho lẽ phải.

Phan An

Phan An là tên người thời sau quen gọi, có tên thật là Phan Nhạc (247–300) thời Tấn trong lịch sử Trung Hoa, người Trung Mưu, Huỳnh Dương. Ông nổi tiếng là một nhà văn và là người đẹp trai, hào hoa, phong nhã, đứng ngang hàng Tống Ngọc: “Đẹp như Phan An, Tống Ngọc”.

Phan Nhạc sớm nổi tiếng là có tài năng, được đồng hương khen là kỳ đồng. Nhưng Phan Nhạc không được dùng, thành ra mất 10 năm không làm gì, rồi được nhận chức Hà Dương Huyện lệnh. Phan Nhạc thấy bọn danh sĩ cùng lứa là Sơn Đào, Vương Tế, Bùi Giai được Tấn Vũ Đế sủng hạnh, ông rất lấy làm uất ức và bất mãn. Sau này ông được chuyển làm Hoài Huyện lệnh. Ở cả hai nơi này, Phan Nhạc siêng năng làm việc, có chánh tích, nên được gọi về kinh đô, làm Thượng thư Độ chi lang, rồi thăng làm Đình úy bình. Sau đó Phan Nhạc phạm lỗi nên chịu miễn quan.

Vợ Phan Nhạc chết sớm, thi sĩ làm nhiều bài thơ nhớ thương gọi là Điệu vong. Trong bài Khiển bi hoài kỳ 3, Nguyên Chẩn có ý phê phán: Những gì nói và làm cho người thân sau khi người thân chết đều chẳng có giá trị gì.

Ngoại thích Dương Tuấn phụ chánh, lấy Nhạc làm Thái phó Chủ bộ. Sở vương Tư Mã Vĩ giết Dương Tuấn, bức hại thủ hạ của ông ta. Trưởng sử của Vĩ là Công Tôn Hoành thuở hàn vi từng được Phan Nhạc chu cấp, nên cầu xin cho ông, vì thế Nhạc chỉ bị trừ danh. Ít lâu sau, Phan Nhạc được làm Trường An lệnh, rồi được triệu về kinh, bổ làm Bác sĩ, chưa nhận chức thì mẹ mất, nên chịu miễn quan. Sau đó Phan Nhạc được làm Trứ tác lang, chuyển làm Tán kỵ Thị lang, thăng làm Cấp sự Hoàng môn Thị lang.

Trong lúc tình hình nhiều biến động, Phan Nhạc bộc lộ tính khí khinh suất nóng nảy, liều lĩnh đầu cơ chính trị, cùng bọn Thạch Sùng nịnh hót ngoại thích Giả Mật (cháu ngoại của Giả Sung), trở thành người đứng đầu của 24 người bạn của Mật.

Triệu vương Tư Mã Luân giết Hoàng hậu Giả Nam Phong, giành quyền phụ chánh, trọng dụng tâm phúc là Tôn Tú. Khi xưa Tôn Tú từng làm tiểu lại ở Quận Lang Da, Phan Nhạc ghét thói xảo quyệt của hắn, nhiều lần đánh đập làm nhục, khiến hắn ngậm hờn, vu cáo Phan Nhạc với bọn Thạch Sùng mưu phản, rồi tru di tam tộc của ông, đến phụ nữ cũng không tha. Nhà họ Phan chỉ có con trai của Phan Thích là Phan Bá Vũ trốn thoát, mẹ của Nhạc và con gái của Phan Báo được chiếu chỉ tha chết.

Thành tựu về chánh trị của Phan Nhạc chỉ có thời gian làm Lệnh của 2 huyện, nhưng thành tựu về văn chương của ông thì rất đáng kể.

Tấu nghị. Trong thời gian làm Hoài huyện lệnh, Phan Nhạc dâng lên Thượng khách xá nghị, kiến nghị thu các quán trọ về để chánh quyền quản lý, nhằm ức chế thương nghiệp. Triều đình nghe theo. Sử cũ chép đầy đủ bản tấu nghị này.

Phú. Số lượng bài phú của Phan Nhạc ngày nay không còn nhiều, nhưng nội dung đa dạng, thông qua một số tác phẩm tiêu biểu có thể nắm được đại lược thăng trầm trên đường đời và diễn biến trong nội tâm của ông.

Ai lụy. Nhạc rất giỏi thể văn Ai lụy. Ngày nay còn khoảng 20 bài, được Trương Phổ tập hợp trong Phan hoàng môn tập, được đưa vào Hán Ngụy Lục triều bách tam gia tập. Tác phẩm tiêu biểu là Dương Kinh Châu lụy dành cho cha vợ là Dương Triệu) và Ai vĩnh thệ văn dành cho vợ.

Thơ. Hiện còn khoảng 52 bài, được đưa vào Tiên Tần Hán Ngụy Tấn Nam bắc triều thi. Tác phẩm tiêu biểu là chùm 3 bài Điệu vong thi thương tiếc người vợ đã mất.

Phan Đà

Phan Đà (1402–1426), người Xóm Khai Tiến, Xã Võ Liệt, Nghệ An, cạnh bờ Sông Lam. Năm 1416, quân Minh tràn vào Nghệ An cướp phá các làng quê, tàn sát dân thường vô tội. Căm thù giặc, Phan Đà tuy mới 16-17 tuổi liền cùng với trai tráng trong làng vào rừng lập căn cứ, tích trữ lương thực, rèn luyện vũ khí, luyện tập võ nghệ để chống giặc, bảo vệ quê hương.

Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa, sau đó về Nghệ An xây dựng căn cứ chống quân Minh. Tướng Phan Đà dẫn lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và cùng dân binh Xã Võ Liệt hăng hái tham gia nhiều trận chiến. Trong nhiều cuộc công đồn giặc, Phan Đà luôn được Lê Lợi cử làm tướng tiên phong.

Năm 1426, Phan Đà lọt vào ổ phục kích của quân Minh mà tử thương ở tuổi 24.

Phan Đà mất, Lê Lợi như mất đi một cánh tay. Năm 1428, đánh đuổi xong quân, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế Lê Thái Tổ. Nhớ đến công lao của Phan Đà, Lê Thái Tổ truy phong cho ngài quân hàm đại tướng quân.

Khoảng cuối năm 1470, Vua Lê Thánh Tông thân chinh dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, đến Thành Nghệ An vua nghỉ lại. Thế giặc lúc đó rất mạnh, đêm đến nhà vua lo lắng không ngủ được. Canh 2 vua vừa chợp mắt thì thấy một chàng trai trẻ mặc áo xanh, dắt ngựa bạch quỳ xuống trước mặt ngài và thưa rằng: “Bệ hạ đi đánh giặc Chiêm Thành lần này thế nào cũng thắng”. Vua hỏi: “Nhà ngươi là người ở đâu?” Người thanh niên trả lời: “Muôn tâu! Thần quê ở Tổng Võ Liệt, chỗ ở của thần trên có Am Bạch Vân, dưới có một ao sen”. Người thanh niên này xin tình nguyện dẫn đường cho Vua đi đánh giặc. Vua tỉnh dậy, hóa ra đó là một giấc chiêm bao.

Trận đó, quân triều đình thắng lớn. Trên đường trở về Thăng Long, Vua Lê Thánh Tông đích thân cùng tướng lĩnh đến thăm đền tại Xã Võ Liệt, thấy cảnh sắc đúng như trong mộng. Nhà Vua liền cấp thêm đồ tế khí, sai dân Võ Liệt tôn tạo lại đền, cấp thêm một người thừa tự và 20 người sái phu, hàng năm miễn trừ tạp dịch. Nhà Vua còn phong cho Phan Đà là Thượng đẳng thần.

Theo sử cũ ghi lại, từ đó về sau những cuộc Nam chinh đi đánh giặc, hễ thấy thế giặc mạnh, quân Việt khó thắng là các tướng lĩnh triều đình đều phi ngựa về Đền Bạch Mã để cầu xin và đều thắng trận trở về. Bởi thế, riêng dưới Triều Lê, Đền Bạch Mã được các đời Vua Lê phong tới 40 đạo sắc. Thời Nguyễn cũng được phong hàng chục đạo sắc như thế. (Sao Mai, 2010)

Cho đến ngày nay, Phan Đà vẫn được thờ ở Đền Bạch Mã, tọa lạc tại Thôn Kim Tiến, Xã Võ Liệt, Huyện Thanh Chương, Nghệ An, cách Tp Vinh khoảng 40 km về phía tây.

Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản (1796–1867) là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử nước Việt.

Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền, tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập sống thời Nhà Minh. Sau khi Nhà Minh bị Nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang Phủ Hoài Nhơn, Bình Định. Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một người con trai tên là Phan Thanh Ngạn.

Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam, di chuyển qua một số nơi rồi cuối cùng đến lập nghiệp tại Thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, Huyện Vĩnh Bình, Phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh (nay là Xã Bảo Thạnh, Huyện Ba Tri, Bến Tre). Ở đây, ông Ngạn cưới người vợ tên Lâm Thị Búp, sinh ra Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chồng.

Năm 1825, Phan Thanh Giản đậu Cử nhân. Sau đó một năm, ông đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, vào năm 30 tuổi. Ông là người Nam Bộ đầu tiên đậu Tiến sĩ.

Từ đó, Phan Thanh Giản làm quan trải ba triều là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Đặc biệt, ông được vua Tự Đức giao làm Tổng tài Quốc sử quán trông coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục.

Triều đình sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa.

Ngày 9-5-1862, Thiếu tướng Bonard bên Pháp cùng Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp ký tờ hòa ước, có những khoản chính sau:

  • Nước Nam nhường đứt cho nước Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cùng Đảo Côn Lôn (Côn Đảo);
  • Nước Nam trả tiền binh phí 4.000.000 piastre trong 10 năm, mỗi năm 400.000 piastre (quy ra là 288 nghìn lạng bạc);
  • Nước Pháp trả Tỉnh Vĩnh Long lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp yên giặc giã ở Tỉnh Gia Định và Tỉnh Định Tường thì mới rút về.

Trước khi thương nghị với Pháp cho Hòa ước 1862, Vua Tự Đức đã cho Phan Thanh Giản quyền tùy nghi định đoạt, nhưng về việc cắt đất, nhà Vua căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại ba tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe. Nhưng Phan Thanh Giản đồng ý cả việc cắt đất lẫn việc bồi thường chiến phí. Do đó mà khi trở về hai ông bị quở trách nặng nề.

Năm sau, 1863, Vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm Chánh sứ sang nước Pháp để điều đình việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Trước khi đi, nhà Vua ướm hỏi: “Trước kia ngươi bỏ 3 tỉnh Nam Kỳ chắc là đã có cân nhắc, vậy ngươi còn có ý gì nữa chăng?” Phan Thanh Giản tâu: “Tôi xét kỹ thời thế, không bỏ không được, nay tôi vâng mệnh đi sứ, việc thành hay không đều tùy nước Tây, tôi chỉ biết hết lòng hết sức mà thôi”. Vua chảy nước mắt! (Phan Khoang, 1961)

Nhưng Phan Thanh Giản cũng không đạt được kết quả trong việc chuộc lại ba tỉnh.

Trong chuyến đi này, Phan Thanh Giản và phái đoàn lần đầu được tiếp xúc nền văn minh phương Tây thông qua các lĩnh vực như: tài chính, giao thông, bưu điện, quân sự… Ông cũng có dịp thảo luận với sứ thần các nước khác như Áo, Phổ (Đức) về hệ thống thuế khóa của họ. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản đề nghị triều đình ký một số hòa ước với Pháp, đặt quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, mở rộng buôn bán với nước ngoài, cử người du học, cải tổ nội trị theo mô hình phương Tây. Tiếc rằng, những tấu sớ của ông không được Vua Tự Đức nghe theo.

Buồn chán trước thực tại, Phan Thanh Giản từng làm thơ than rằng:

Từ ngày đi sứ đến Tây kinh
Thấy việc Châu Âu luống giật mình
Nhắn nhủ đồng bang mau tỉnh dậy
Hết lòng năn nỉ chẳng ai tin.

Năm 1865, Phan Thanh Giản giữ chức Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).

Năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế 4 năm trước), yêu cầu Phan Thanh Giản gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, cho rằng không thể giữ nổi, nên để tránh đổ máu vô ích, Phan Thanh Giản quyết định trao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867), Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn.

Sau khi thành mất, Phan Thanh Giản gói mũ áo, phẩm hàm, kèm theo sớ tạ tội và gửi về triều. Song chờ nửa tháng vẫn không thấy triều đình hồi âm. Lo lắng rồi thất vọng, Phan Thanh Giản uống thuốc phiện hòa với giấm thanh tự sát và qua đời vào nửa đêm ngày 04-8-1867, hưởng thọ 72 tuổi.

Soái phủ Pháp là Pierre-Paul de La Grandière sai đưa linh cữu ông với đoàn binh hộ tống về Bảo Thạnh an táng. Mộ ông rất khiêm nhường, đề bảy chữ Nho: Lương Khê Phan lão nông chi mộ (mộ của lão nông tên hiệu Lương Khuê).

Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở Ấp Thạnh Nghĩa, Xã Bảo Thạnh, Huyện Ba Tri, Bến Tre. Từ rất lâu, nhân dân ở vùng Núi Ba Thê, thuộc Huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị Thành hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long.

Thái độ của triều đình Huế đối với Phan Thanh Giản

Theo Đại Nam thực lục (Viện Sử học, 2002-2007), Vua Tự Đức và triều đình đổ hết tội lỗi cho Phan Thanh Giản về việc để mất Nam Kỳ Lục tỉnh. Tháng 11-1868, triều đình kết tội ông “xét phải tội chết, chưa đủ che được tội” và xử “trảm quyết” nhưng vì chết nên được miễn, lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ.

Đến năm 1886, dưới thời Pháp thuộc, Phan Thanh Giản được Vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá Đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ. Việc Vua Đồng Khánh khôi phục chức vị cho Phan Thanh Giản có lẽ là do sức ép của Pháp, vì chính Đồng Khánh cũng là ông vua do Pháp đưa lên ngôi để có danh nghĩa chống lại vị vua yêu nước Hàm Nghi.

Năm 1924, Vua Khải Định sắc cho Đình Tương Bình Hiệp (Bình Dương) thờ Phan Thanh Giản làm thần. Bản sắc dịch ra như sau: “Nay sắc cho Xã Tương Bình Hiệp, Tổng Bình Phú, Tỉnh Thủ Dầu Một phải phụng thờ Tam giáp Tiến sĩ, Hiệp tá Đại học sĩ, Sung Cơ mật viện Đại thần Phan Thanh Giản tướng công làm thần giữ nước giúp dân. Vì ông thường linh ứng nên nhân tiết tứ tuần đại khánh trẫm ban bửu chiếu phong cho ông vào bậc Đoan túc Dực bảo Trung hưng Tôn thần, chuẩn cho phụng thờ ông làm thần để giúp đỡ và che chở dân đen của ta…” (Ngô Minh–Tiền Phong, 2008)

Nhận định về Phan Thanh Giản

Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về Phan Thanh Giản. Không ít nguồn cho rằng ông là người có tội trong việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ vào tay quân Pháp khi ông làm Chánh sứ toàn quyền đại thần ký hòa ước Nhâm Tuất 1862.

Nhưng quan niệm của người Nam Bộ lại khác. Nhiều nhà sử học quê hương Nam Bộ không đồng thuận với phán xét của Vua Tự Đức và quan điểm của chính sử đương thời. Ngay sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết, nhân dân Vĩnh Long đưa linh vị của ông vào thờ ở Văn Thánh Miếu. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ, nhà yêu nước cùng thời, cùng sống ở Ba Tri với Phan Thanh Giản tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao châu
Ba triều công cán đôi hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu

Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ rày mặc gió thu.

Trong thời gian chia cắt đất nước, miền Nam có nhận định tích cực về Phan Thanh Giản, như thể hiện trong việc đặt tên đường và trường học:

  • Sài Gòn: đường Phan Thanh Giản là một trong những tuyến đường lớn và dài nhất;
  • Cần Thơ: trường Phan Thanh Giản là một trong ba trường trung học lớn nhất Nam Bộ;
  • nhiều thị xã, tỉnh lỵ và quận lỵ có đường Phan Thanh Giản.

Sau năm 1975, chính quyền mới đổi hầu hết đường và trường học mang tên Phan Thanh Giản thành tên mới, tuy tên đường Phan Thanh Giản được giữ lại ở một số địa phương như Giá Rai, Lái Thiêu, Mỹ Tho, Tân Châu, Trà Ôn.

Theo Khám Phá Lịch Sử (2020), Cụ Phan Thanh Giản là một nhân vật lịch sử có số phận khác thường, đã chết bốn lần:

  • Lần thứ nhất là cụ uống thuốc độc tự tử.
  • Lần thứ hai, cụ bị thực dân Pháp ám sát khi khen cụ sáng suốt không chống lại Pháp.
  • Lần thứ ba, cụ bị triều đình vua Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu”.
  • Lần thứ tư là vào thời gian 1960-1963, khi chúng ta [miền Bắc] hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, và nền sử học rời khỏi con đường dài phục vụ cách mạng mà đi vào con đường tắt phục vụ chính trị đương thời đã xử tử cụ (cũng như phê phán những người yêu nước chủ trương không dùng bạo lực như Phan Châu Trinh), gây ra một công án đau lòng khiến những trí thức như Ca Văn Thỉnh đương thời day dứt và các chính khách như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trăn trở.

Khám Phá Lịch Sử (2020) tóm tắt các diễn tiến sau.

Hội thảo Phan Thanh Giản tại Hà Nội 1956 – Lên án Phan Thanh Giản

Cuộc hội thảo diễn ra năm 1956, nhưng mãi đến năm 1963 mới được “công khai hóa” trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 55, qua bài kết luận của GS Trần Huy Liệu được đăng tải dưới tiêu đề “Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 55, tháng 10/1963).

Quan điểm chung của bài kết luận này là lên án Phan Thanh Giản:

“ Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân, là phạm tội dâng thành hiến đất cho giặc, từ đó phủ nhận tất cả đức tính liêm khiết, lòng yêu nước, thương dân…, bởi vì “công đức đã bại hoại thì tư đức còn gì đáng kể”.

Phan Huy Lê cho ý kiến:

“  Bài kết luận này cũng như những tham luận đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử lúc bấy giờ cho thấy, bên cạnh thái độ lên án PTG, cũng có những ý kiến muốn nhìn nhận ông một cách toàn diện hơn và phải ghi nhận những phẩm giá, nhân cách của ông một cách khách quan và thỏa đáng hơn. Và ngay sau khi cuộc thảo luận kết thúc với kết luận lên án và phê phán nặng nề như vậy thì GS Ca Văn Thỉnh với tư cách là một người con của Bến Tre, của Nam Kỳ lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng tình. Như vậy là cuộc thảo luận năm 1962-1963 tuy kết thúc, nhưng trong tranh luận và sau khi kết luận, vẫn tồn tại những quan niệm và ý kiến khác nhau.”

Năm 1963, kết luận tổng kết cuộc tranh luận về Phan Thanh Giản trên Tạp chí Lịch sử, một nhà sử học lại lên án Phan Thanh Giảm phạm tội “bán nước”, “dâng thành hiến đất cho giặc”.

Hội thảo tại Vĩnh Long năm 1994 “Phan Thanh Giản, con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử”

Năm 1994 vấn đề cụ Phan Thanh Giản lại được đặt ra trong Hội thảo khoa học ở Vĩnh Long, nhưng hầu như không có tiếng vang nào đáng kể. Các công trình cũ vẫn còn đó, các giáo trình cũ vẫn còn đó, quan niệm cũ vẫn còn ngự trị, tâm lý cũ vẫn còn tác động. Nhiều người không ngại khẳng định Phan Thanh Giản, mà sợ phản đối đồng chí và đồng nghiệp, cấp trên hay thầy học của mình.

Có lẽ do vậy mà mãi đến ba năm sau (1997) cuộc hội thảo này mới được phổ biến bản đúc kết của GS Phan Huy Lê với tiêu đề vừa nêu, với các đoạn quan trọng trong bản đúc kết này:

“  Tư liệu lịch sử của ta cho thấy Phan Thanh Giản không phải đầu hàng, nộp thành cho giặc như sự miêu tả của một số tư liệu Pháp, nhưng việc mất 3 tỉnh miền Tây cũng là hậu quả tai hại của những chủ trương sai lầm của Tự Ðức và triều Nguyễn, trong đó dĩ nhiên có trách nhiệm của bản thân Phan Thanh Giản.

“  Phan Thanh Giản là người yêu nước, thương dân nhưng cũng là một tín đồ của Nho giáo với lòng trung quân sâu nặng.

“  Nỗi đau lòng và tính bi kịch của Phan Thanh Giản là một mặt ông cùng “chủ hoà” với triều đình, rất mực trung thành với vua, mặt khác ông lại nặng lòng yêu nước, thương dân. Mâu thuẫn đó đã đẩy ông đến chỗ bế tắc và chỉ còn biết lấy cái chết để kết thúc cuộc đời và bày tỏ nỗi lòng của mình.

“  Qua cuộc hội thảo này, chúng ta thấy rõ những mặt hạn chế và bế tắc của Phan Thanh Giản, nhưng đồng thời chúng ta cũng trân trọng ghi nhận những cống hiến tích cực của ông trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp, đánh giá cao nhân cách và phẩm chất cao quý của ông.

“  Những kết quả và thái độ của hội thảo sẽ giải tỏa phần nào những mặc cảm bấy lâu đè nặng lên tâm tư của nhiều người, kể cả con cháu Phan Thanh Giản và con cháu Trương Ðịnh, những người “chủ chiến” đã kiên quyết chiến đấu chống Pháp xâm lược và đã hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân”.

(Tạp chí Bông Sen của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long xuất bản tại Cần Thơ do nhà thơ Lê Chí chủ trương thực hiện).

Tham dự cuộc hội thảo nầy, GS Văn Tạo trình bày bài “Về sự nghiệp & vai trò lịch sử của Phan Thanh Giản” trong đó đã đưa ra quan điểm về “Công minh lịch sử” và “Công bằng xã hội”, ông cho rằng “không nên thấy cụ Phan sai lầm trong giữ nước mà quên đi tư tưởng yêu dân, thương dân, sớm có xu hướng canh tân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của cụ”.

Tọa đàm “Thế kỷ XXI nhìn về Phan Thanh Giản” 2003 tại Tp HCM

Trong cuộc Tọa đàm này, nhiều người khẳng định cụ Phan Thanh Giản là người yêu nước và thương dân.

Thương dân có đồng nghĩa với trọng dân hay không ở các nhà nho xưa còn là chuyện phải bàn, nhưng uyên nguyên của tấn bi kịch lịch sử nơi cụ Phan Thanh Giản là ở chỗ ông đã theo một cái học coi triều là nước. Cho nên lúc vua sợ giặc mà dân chống giặc, cụ Phan Thanh Giản cũng dần dần rơi vào bế tắc trên một lập trường chính trị chiết trung. Vừa mong ái dân vừa muốn trung quân, cái tâm thế lưỡng phân này khiến từ 1859 cụ Phan không kế thừa được một cách tích cực truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và sau Hoà ước 1862 thì có nhiều hành động bất lợi cho phong trào chống Pháp “chẳng nghe Thiên tử chiếu”.

Cho nên bi kịch lúc còn sống của cụ Phan Thanh Giản trước hết là sự thất bại về trí tuệ của thế giới cũ, một thế giới già cỗi đang rúng động và từng bước giải thể trong quá trình tiếp xúc với cái thế giới mới sung sức, năng động và tàn nhẫn hơn tới từ phương Tây.

Đây cũng là bi kịch của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỷ 19 nói chung và Nhà Nguyễn nói riêng, vì với một chính quyền thì sự bất lực trước nhiệm vụ thực tiễn luôn gắn liền với sự suy thoái về đạo đức chính trị. Dĩ nhiên trong chính trị thì không phải có tội lỗi hay sai lầm là không có tinh thần yêu nước, nên vẫn có thể nói cụ Phan Thanh Giản là một người yêu nước ít nhất theo kiểu của cụ.

Tham dự tọa đàm tại Tp HCM, GS Văn Tạo có vài suy nghĩ bổ sung như sau:

“  1. Khẳng định cụ Phan Thanh Giản là một nhà yêu nước, thương dân, trọng dân.

“  2. Cụ Phan Thanh Giản không có ý đồ phản bội quyền lợi dân tộc mà là muốn bảo vệ quyền lợi dân tộc bằng cách gắn quyền lợi đó với ý thức thương dân, với tinh thần “dựng nước” trong điều kiện mới và với lòng mong muốn canh tân đất nước.

“  3. Công lao xây dựng đất nước của cụ Phan, trong điều kiện lịch sử lúc đó thật đáng ca ngợi, phải đánh giá là xuất sắc.

“  4. Những hoạt động dựng nước của cụ trước khi cụ qua đời gắn liền với những di chúc của cụ cho con cháu và cho hậu thế sau khi qua đời đã biểu hiện cụ rõ: Cụ là một trong những nhà yêu nước đầu tiên có xu hướng canh tân.

“  5. Việc cụ ký hòa ước về 3 tỉnh miền Ðông cũng như để thất thủ ba tỉnh miền Tây là những sai lầm, nhưng cần thấy trách nhiệm chính về sai lầm đó là thuộc triều đình Tự Ðức mà cụ chỉ là người thừa hành và liên đới chịu trách nhiệm.

“  Sự quyên sinh của cụ trong điều kiện và hoàn cảnh đó – là đáng ca ngợi, bởi nó biểu lộ rõ phẩm chất của một người suốt đời tận tụy với dân với nước, nhận trách nhiệm trước sai lầm của mình, không tham danh hám lợi, không tham sống sợ chết, đã tự nguyện quyên sinh.”

Phan Thị Minh Lễ, Tiến sĩ sử học tại Paris, viết:

“  Trên căn bản và nguyên lý của tài liệu công cũng như tư, từ việc ký Hiệp ước 1862 đến việc mất ba tỉnh miền Tây Nam kỳ 1867 Phan Thanh Giản hoàn toàn vô tội, ông chỉ là kẻ thừa hành để bảo vệ sự bình an cho dân, còn bảo vệ lãnh thổ thì Phan Thanh Giản chỉ cầu xin trời đất vì một Phan Thanh Giản không thể làm nổi. Muốn có một quân đội hùng mạnh, kỷ cương và vũ khí tối tân hơn thì khi Gia Long lên ngôi (1802) đã phải nghĩ ngay đến vấn đề này. Gởi người tài giỏi ra nước ngoài để học cái văn minh của người mà về truyền bá cho nước ta. Vì sự đóng cửa và hạn chế của vua cũng như đình thần, đã đưa đến nước nhà một sự chậm tiến. Khi có dịp nguy mới tìm đến việc kêu cứu như một sự muộn màng, khó cứu chữa. Phan Thanh Giản chết bằng cách này hay bằng cách khác đúng theo luật định của người giữ thành.”

Tạp chí Xưa và Nay số tháng 9-2003 đăng bài “Những suy nghĩ sau hai cuộc hội nghị về nhân vật Phan Thanh Giản” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trích đoạn (Anon., 2009):

“  Những gì mà tôi nghe được, đọc được từ những trang sử học, những bài phát biểu của một số địa phương như Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bạc Liêu, Bến Tre… qua đánh giá của các nhà nghiên cứu và các bậc lão thành, Phan Thanh Giản là người thương dân rất mực, trong sáng trong đời sống riêng tư, cần kiệm, liêm chính, hết mình với dân với nước… Với tôi, đây là một tấm gương mà mỗi chúng ta nên suy nghĩ và học tập.

“  Nhưng 5 năm cuối đời Phan Thanh Giản phải lãnh trọng trách quá lớn, liên quan tới vận nước và ông đã không làm tròn. Hay đúng hơn, trọng trách triều đình đã giao ngoài khả năng của ông. Đó là việc giảng hòa với Pháp và Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862. Với Hòa ước này, Phan Thanh Giản đã giao cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và chấp nhận một số tiền bồi thường để đòi lại tỉnh Vĩnh Long. Và đến năm 1867, Phan Thanh Giản lại để mất 3 tỉnh miền Tây mà không có một kháng cự nào… Đó là lý do để một số nhà sử học quy cho Phan Thanh Giản tội bán nước và phủi sạch công đức gần suốt cuộc đời cần mẫn, chỉn chu của ông.

“  … việc để mất 3 tỉnh miền Tây trước tiên thuộc về triều đình Tự Đức chứ đâu chỉ tại riêng Phan Thanh Giản. Hơn nữa, tôi muốn nói rằng việc quyết định giữ 3 tỉnh miền Tây hay để mất 3 tỉnh trong thời điểm lúc bấy giờ không còn thuộc quyền quyết định của Phan Thanh Giản, triều đình mà đã thuộc trong tầm tay của quân đội Pháp. Vì vậy, việc một số người đổ trách nhiệm hoàn toàn cho Phan Thanh Giản là không khách quan và có phần oan cho ông. Tôi nghiêng về một số ý kiến cho rằng Phan Thanh Giản có phần trách nhiệm trong việc để mất 6 tỉnh Nam kỳ. Tôi cho đánh giá như vậy là có tình có lý và dễ thuyết phục hơn.

“  Với việc để mất 3 tỉnh còn lại của Nam kỳ này, Tự Đức lại nổi giận và tước mọi chức tước, đục cả bia tiến sĩ của Phan Thanh Giản. Tôi cho một lần nữa Tự Đức lại tránh né trách nhiệm khi để mất 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. Càng có thời gian, chúng ta càng thấy Phan Thanh Giản bị cái án oan.

“  Riêng tôi, qua hai lần hội nghị, tôi nhận thức rất rõ về nhân cách, đức độ của Phan Thanh Giản rất đáng để chúng ta và nhiều thế hệ nối tiếp học tập.

“  Về việc Phan Thanh Giản có yêu nước hay không, tôi nghiêng về ý kiến của các nhà nghiên cứu vừa rồi khi minh chứng ông là người yêu nước. Không có một lý do gì có thể phủ nhận một người yêu dân, thương dân, luôn chăm lo cho dân như Phan Thanh Giản lại là người không yêu nước.”

Một số sự kiện tiếp theo

Nhận định về Phan Thanh Giản ngày càng tích cực hơn (Ngô Minh–Tiền Phong, 2008):

  • Viện Sử học đi đến quyết định “phục hồi danh dự” cho Phan Thanh Giản năm 2008, nhận định: “Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau”.
  • Trong lễ giỗ Phan Thanh Giản năm 2008, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Tỉnh Vĩnh Long tổ chức lễ rước và an vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, nơi Kinh lược sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết. Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến.
  • Tỉnh Bến Tre năm 2008 thông qua việc đổi tên trường THPT Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009. Sắp tới tỉnh sẽ dựng lại tượng Phan Thanh Giản.

Trong một cuộc phỏng vấn, GS Đinh Xuân Lâm có những phát biểu sau (Hồng Thanh Quang, 2017):

“  Muốn đánh giá đúng ông Phan Thanh Giản thì phải căn cứ vào bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Phan Thanh Giản là nhân vật yêu nước chứ không thể nói ông là người bán nước như từ trước đến nay vẫn nói…

“  Ông Phan Thanh Giản đã cho rằng, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, nếu ta cứ đánh sáp vô thì nhất định sẽ phải chịu rất nhiều tổn thất và cuối cùng thì cũng vẫn thua. Vì thế, ông cho rằng, trước tiên Nhà Nguyễn lúc đó cần phải tiến hành một số cải cách, trên cơ sở cải cách lúc bấy giờ thì mới phát triển một số mặt và lúc có đủ điều kiện về vật lực thì mới tính đến chuyện đánh đuổi giặc Pháp. Chúng ta hiện nay đã có đủ căn cứ tư liệu để nói rằng Phan Thanh Giản là một trong những người có tư tưởng đổi mới đầu tiên ở nước ta. Tôi nói ra điều này là căn cứ vào các tài liệu lịch sử đang có trong tay.

“  Năm 1975, khi vừa giải phóng Sài Gòn, tôi với anh Phan Huy Lê, anh Trần Quốc Vượng, anh Hà Văn Tấn được Ban Khoa giáo điều động vào nói chuyện với giáo chức đại học còn lại ở trong đó. Nói chung họ khen và sau họ tổng kết, họ nói rằng mấy ông nghiên cứu sử ngoài Bắc vào nói thì hay, nhưng riêng vấn đề Phan Thanh Giản thì chúng tôi chưa thông. Thì lúc ấy mình cũng nói theo lối chính diện…”

Nguyễn Nhã (2020) cho ý kiến:

“ … một cách khách quan, một nhà sử học như tôi bắt buộc phải nhận xét như sau:

“  Một là  Phan Thanh Giản đã chết vì nước hay đã tuẫn tiết và nhận có tội để mất thành, cũng phần nào giống như Hoàng Diệu hay Nguyễn Tri Phương sau này.

“  Hai là  Phan Thanh Giản là một trí thức lớn có nhân cách lớn, “đáng làm mô phạm cho đời như vua Tự Đức nhận xét; sống thanh bạch, là tấm gương sáng cho muôn đời sau, nhất là lời dặn dò các con cháu trước khi tuẫn tiết, sau này các con ông như Phan Tôn, Phan Liêm tham gia khởi nghĩa chống Pháp đều đã được đặt tên đường…

“  Còn tội để mất thành hay mất nước trong tình thế không thể giữ được như chính Phan Thanh Giản đã nhận, thì tội trên hết vẫn là vua quan triều Nguyễn lúc bấy giờ cũng như cả hệ thống chính trị lạc hậu so với văn minh phương Tây hồi đó.”

Tư liệu mới hơn

Khám Phá Lịch Sử (2020) cho thông tin và ý kiến dưới đây.

Từ nước Pháp xa xôi, bà Phan Thị Minh Lễ với sự cho phép của gia đình dòng họ Đô đốc De la Grandière may mắn tiếp cận để tra cứu một số hồ sơ cất kỹ chưa hề mở ra xem từ khi đô đốc này qua đời. Nội dung hồ sơ trên với bốn tập thủ bản gồm các thư từ riêng của De la Grandière cho thấy người Pháp rắp tâm chiếm đóng ba tỉnh miền Tây và bí mật sắp đặt như thế nào.

Đó là nguồn tài liệu mới nhất mà bà Minh Lễ, tiến sĩ sử học Đại học Paris VII, công bố và kết hợp sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác từ kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp (cũng như từ châu bản triều Tự Đức) để cùng GS Pierre Ph.Chanfreau đồng biên khảo cuốn sách Phan Thanh Gian, Patriote et Précurseur du Vietnam moderne, ses dernirères années 1862-1867 (Những năm cuối đời của Phan Thanh Giản, nhà yêu nước và người mở đường cho một nước Việt Nam hiện đại) xuất bản tại Pháp cuối năm 2002, song tới nay vẫn chưa được biết đến rộng rãi tại Việt Nam.

Mới đây để giới thiệu công trình này, Nguyễn Nghị và Nguyễn Hạnh có bài viết chung in trong cuốn Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản (nhiều tác giả, do Tạp chí Xưa và Nay kết hợp NXB Đồng Nai ấn hành tháng 8-2006), nhận định rằng, bằng những tư liệu chưa được công bố, TS Minh Lễ và GS Chanfreau đọc lại lịch sử với ánh sáng mới đi đến “minh chứng một cách hùng hồn và đầy thuyết phục Phan Thanh Giản không phải là một kẻ bán nước, phản quốc và phản dân tộc”.

Đồng thời, có 30 nhà khoa học, chính khách trong và ngoài nước như: Cao Tự Thanh, Chương Thâu, Đinh Xuân Lâm, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Phan Quang, Phan Huy Lê, Sơn Nam, Trần Đại Vinh, Trần Viết Ngạc, Trương Bá Cần, Văn Tạo, Võ Xuân Đàn, Vũ Ngọc Khánh, góp bài trong sách để “ghi nhận một chặng đường nhận thức dài cùng những biến thiên của lịch sử đất nước, chân dung cụ Phan học sĩ đang dần trở lại với cái nhìn đầy lòng vị tha truyền thống của người Việt Nam”.

Một vấn đề thiết nghĩ nên sớm bàn, nhà nước cần làm ngay là sửa chữa, điều chỉnh lại toàn bộ sách giáo khoa về những điểm sai lầm đối với các nhân vật lịch sử mà trước đây do chính kiến đã không trung thực như vấn đề cụ Phan Thanh Giản… Ðừng để kiến thức học sinh nhiều thế hệ tiếp tục bị hiểu sai lạc lịch sử, dẫn đến nhiều sai lạc trầm trọng khác nữa cho đời sau.

Ghi chú: Khám Phá Lịch Sử (2020) cho đường link để tải về cuốn sách Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản nhưng không thấy bài của “30 nhà khoa học, chính khách”:
https://docs.google.com/document/d/1lWe9bee8uMz-05XY7DHyXKe_MgXK3JiiEJ2o9kvnNDs/edit

Phán sự đền Tản Viên

Xem: Tử Văn đốt đền.

Pháp gia

Trong lịch sử Trung Hoa, Pháp gia là một trường phái triết lý ở thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc (từ khoảng thế kỷ 6 tCN tới khoảng thế kỷ 3 tCN). Học thuyết Pháp gia được hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi một số tác giả xuất sắc như Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. (Nguyễn Thị Kim Bình, 2008).

Tư tưởng về Pháp gia của Quản Trọng (725–645 tCN), tể tướng nước Tề, được ghi trong bộ Quản Tử, gồm 4 điểm chủ yếu sau:

1/ Làm cho nước giàu binh mạnh;

2/ Phát triển nông, công, thương và cho phép tội nhân chi trả cho triều đình để chuộc tội;

3/ Đề cao luật (để định danh phận mỗi người), hình (để trừng trị kẻ có tội), lệnh và chính (để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải).

4/ Chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm trong phép trị nước.

Trên thực tế, nó mang nhiều tính cách triết lý chính trị thực tiễn, với châm ngôn kiểu “khi thời đại thay đổi, những đường lối cũng thay đổi” làm nguyên tắc chính của mình, hơn là một triết học về luật. Trong hoàn cảnh đó, Pháp gia ở đây có thể mang ý nghĩa “triết lý chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật” và vì thế, khác biệt so với ý nghĩa của Pháp gia phương Tây.

Thân Bất Hại (401–337 tCN) là người nước Trịnh, làm quan đến bậc tướng quốc, đưa ra chủ trương ly khai đạo đức khỏi lễ và đề cao thuật trong phép trị nước. Theo đó, nhà Vua không được lộ ra cho bề tôi biết vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay ít, thương ai ghét ai… Như vậy, bề tôi không thể đề phòng, dối trá hoặc lừa gạt quân vương.

Thương Ưởng (khoảng 390–338 tCN) người nước Vệ làm thừa tướng nước Tần, thật sự mang Pháp gia vào đời sống thường nhật với cung cách hết sức thực dụng. Trong phép trị nước, Thương Ưởng để cao pháp theo nguyên tắc dĩ hình khứ hình: dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm. Ông đề ra những điều luật mới quyết đoán và táo bạo, đặc biệt khi biến pháp của ông hạ thấp vị thế của người trong hoàng tộc nếu vô công rỗi nghề và tưởng thưởng người lập công dù có xuất thân nghèo hèn. Biến pháp như thế gây thù chuốc oán với hoàng tộc khiến cho Thương Ưởng mất mạng sau khi nhà Vua qua đời và ông mất chỗ dựa, nhưng di sản của ông mãi phát huy về sau, giúp nước Tần phát triển và hùng mạnh vượt bậc, tạo nền móng cho Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc mà thống nhất Trung Nguyên. Xem: Thương Ưởng.

Thận Đáo (370–290 tCN) là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng từ triết học của Lão Tử, nhưng về chính trị ông đề xướng cách cai trị bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng pháp luật phải khách quan như vật vô vi và điều này loại trừ ý kiến chủ quan của quân vương. Đây là tư tưởng tiến bộ mà sau này Hàn Phi Tử tiếp thu và hoàn thiện.

Hàn Phi Tử (280–233 tCN) có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của Pháp gia. Ông đề cao vai trò của pháp trị và cho rằng khi thời thế thay đổi thì phép trị nước không thể viện dân theo đạo đức của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia hoặc thuyết vô vi của Đạo gia mà cần phải dùng pháp trị. Hàn Phi Tử đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, trong đó xã hội luôn trong quá trình tiến hóa, và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm riêng. Từ đó, ông hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thích ứng với hoàn cảnh xã hội đương thời, theo đó quân vương phải trị vì thần dân của mình theo ba quy tắc sau:

1/ Pháp trong luật pháp: phải được trình bày rõ ràng và thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng trước pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho người tuân phục và trừng phạt người bất tuân, bất kể họ thuộc tông thất hay là dân thường. Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà vua cai trị. Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài cũng trở nên mạnh mẽ.

Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt, là hai đòn bẫy trong tay vua để giữ vững triều đình. Ông chê Thương Ưởng chi biết phạt tội mà ít thưởng công. Mặt khác, ông đồng ý với Thương Ưởng ở điểm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, cho dù hoàng thân quốc tích hay dân thường.

2/ Thuật trong bí thuật: Những thủ đoạn đặc biệt và “bí mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác (quan lại…) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là không một ai có thể biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà vua, và vì thế không ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc tuân theo “pháp” hay các luật lệ.

Thuật là cách thức hoặc thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, phân biệt giữa người trung thành và người xu nịnh, giữa người chân chất và người ma mãnh…

2/ Thế trong thế trị: tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai trị thực sự.

Thế không chỉ là thế lực, địa vị, quyền uy của giới thi hành pháp luật mà dựa trên dựa trên sức mạnh của quần chúng.

Ngoài ba nội dung Pháp, Thuật và Thế nêu trên, tư tưởng Pháp gia còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh để trước nhất có sức mạnh thi hành ba nội dung trên, và kế đến đủ sức thôn tính các nước khác.

Quyền lực chính trị

Pháp gia là tư tưởng trung tâm trong triều đình Nhà Tần, lên tới cực điểm khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên. Tư tưởng Pháp gia thường được đem ra so sánh với công việc của nhà chiến lược người Ý Niccolo Machiavelli qua quyển sách về khoa học chính trị có tựa đề tiếng Ý là Il Principe (bản dịch Việt ngữ: Quân Vương).

Áp dụng thực tiễn

Như đã nêu trên, Pháp gia được Thương Ưởng đưa vào thực tiễn nước Tần qua tân lệnh. Triều đình giữ chữ tín khi áp dụng tân lệnh: đe phạt thì phạt, hứa thưởng thì thưởng. Những điều luật trong tân lệnh đều đơn giản, dễ hiểu nên người dân nào cũng hiểu mình phải làm gì và không được làm gì. Nếu chưa hiểu thì có hình phạt. Ví dụ như người cất tiếng phản đối tân lệnh vì cho là bất tiện đều bị đi đày. Sau đó, người khen là tân lệnh tiện lợi cũng bị đi đày. Từ đó, mọi người hiểu ra: chỉ chấp hành tân lệnh thôi chứ không được khen chê gì cả!

Nhận định đương thời

Đa số các nhà triết học và tư tưởng chính trị Trung Hoa có cái nhìn rất tiêu cực đối với Pháp gia, buộc tội nó là một xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội chuyên chế. Nhiều học giả Trung Hoa tin rằng chính phản ứng chống lại Pháp gia làm cho chính trị đế quốc Trung Hoa mang nhiều đặc tính cá nhân và đạo đức hơn là sự nhấn mạnh vào sự cai trị của pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm này về Nhà Tần có thể là có thành kiến, bởi vì đa số các sách sử Trung Hoa đều do các học giả Nho giáo viết ra, mà những nhà Nho lại bị đàn áp ở thời Tần.

Pháp gia và quyền cá nhân

Các triết gia Pháp gia nhấn mạnh tính vượt trội của nhà nước so với quyền cá nhân. Người dân không có các quyền cá nhân hợp pháp, và bất kỳ quyền tự do cá nhân nào cũng phải bị hạn chế để tăng cường sức mạnh của quân vương. Đặc biệt, Hàn Phi Tử rất nghiêm khắc đối với những khái niệm về quyền cá nhân. Đó là tiếp nối tư tưởng của Thương Ưởng: dân không được chê mà cũng không được khen pháp luật; họ chỉ có nhiệm vụ tuân thủ.

Ổn định xã hội ở đất nước Pháp gia có nghĩa rằng người dân không bao giờ thoát khỏi sự trừng phạt. Ví dụ, Nhà Tần sử dụng người dân để giám sát lẫn nhau, vì nếu một nhà xảy ra chuyện gì thì tất cả các nhà kia đều bị liên quan, và ai che giấu tội nhân sẽ bị trừng phạt giống tội nhân. Chính sách thực dụng này cuối cùng gây phản ứng ngược: những người pháp gia cắn xé lẫn nhau. Thương Ưởng, khi thái tử phạm pháp thì trừng phạt một cách tàn khốc thầy dạy thái tử, để rồi khi thái tử lên ngôi ông nhận hình phạt ngũ mã phanh thây. Tương tự như thế, Hàn Phi Tử bị đồng môn cũ là Lý Tư ép phải uống thuốc độc, rồi đến lượt Lý Tư cũng bị giết theo luật mà ông đã đặt ra bởi Tần Nhị Thế, người mà ông đã đưa lên ngôi.

Suy tàn

Trong những triều đại về sau, Pháp gia bị mất uy tín và không còn là một trường phái tư tưởng độc lập nữa. Tuy nhiên, những nhà quan sát chính trị Trung Hoa đều cho rằng một số tư tưởng Pháp gia đã trộn lẫn vào xu thế của Nho giáo và vẫn giữ một vai trò trong chính quyền. Thời Thục Hán, thừa tướng nổi tiếng Gia Cát Lượng có chỉnh lý các thiên sách của Thân Bất Hại, Hàn Phi Tử, Quản Tử cho Hán Hoài Đế học.

pháp lam Huế

Pháp lam Huế là di sản vật thể khá đặc biệt của triều Nguyễn (1802–1945) để lại trên đất Huế.

Pháp lam (hay đồ đồng tráng men) nói chung là sản phẩm được làm bằng đồng hoặc hợp kim đồng, trên bề mặt được tráng men trang trí để tăng giá trị thẩm mỹ.

Tên “pháp lam” bắt nguồn từ chữ “falang” (thuộc về nước Pháp)  do người Trung Hoa dùng để chỉ một loại đồ tráng men mà các nhà truyền giáo Tây phương trước kia hướng dẫn cho họ sản xuất rồi du nhập kỹ thuật sang Việt Nam. Chữ “pháp lam” nói trại ra từ chữ “falang”là để tránh phạm húy tên Chúa Nguyễn Phúc Lan hay tên của Hoàng hậu Tống Thị Lan.

Dựa vào phương pháp chế tạo thai cốt và kỹ thuật thể hiện men màu, họa tiết, chế phẩm pháp lang nói chung gồm có bốn loại:

1/ Họa pháp lang 画 珐 琺 瑯 – âm Hán: huafalang; Pháp ngữ: émail peint sur cuivre, Anh ngữ: painted enamel, làm theo kiểu vẽ trên nền men như tác phẩm hội họa, xuất xứ từ vùng Limoges ở Pháp và vùng Battersea ở Anh trong thế kỷ 15. Hai nơi này phát minh ra kỹ thuật dùng bút lông để vẽ các họa tiết bằng men màu lên nền cốt đồng đã được xử lý bằng một lớp men lót, rồi đem nung. Kỹ thuật này về sau được các nước Tây Âu khác như Đức, Hà Lan, Ý, thậm chí cả các nước ở Trung Cận Đông… bắt chước, rồi được du nhập vào Trung Hoa theo chân các tu sĩ Dòng Tên vào cuối thế kỷ 17.

2/ Kháp ti pháp lang 掐 丝 琺 瑯 – âm Hán: chasi falang; Pháp & Anh ngữ: cloisonné, làm theo kiểu ngăn chia ô hộc, từ Đế quốc Byzantine du nhập vào Trung Hoa qua ngã Tây Vực theo vó ngựa viễn chinh của quân Mông Cổ.

3/ Tạm thai pháp lang 錾 胎 琺 瑯 – âm Hán: zantai falang; Pháp & Anh ngữ: champlevé, có cốt làm bằng vàng,  bạc, hay đồng, chạm trổ rất công phu.

4/ Thấu minh pháp lang 透 明 珐 琅 – âm Hán: touming falang, có các lớp trang trí bằng các lớp men nhiều màu chìm dưới lớp men phủ trong suốt.

Pháp lam Huế tiếp thu kỹ nghệ chế tác họa pháp lang của Quảng Đông. Sách Ðại Nam thực lục (Viện Sử học, 2002-2007) cho biết: “Minh Mạng năm thứ 8 [1827]… đặt Pháp lam tượng cục. Bọn Vũ Văn Mai, thợ vẽ ở Nội tạo, học được nghề làm đồ pháp lam. Bèn sai đặt cục ấy, hạn cho 15 người, thiếu thì mộ mà sung vào”. Nhóm thợ vẽ ở Nội tạo, cơ quan chuyên việc vẽ vời, trang trí trong cung Nguyễn, học được nghề làm pháp lam từ Trung Hoa. Ngoài xưởng chế tác pháp lam ở Huế, triều đình Nhà Nguyễn còn mở xưởng pháp lam tại Ái Tử (Quảng Trị) và Ðồng Hới (Quảng Bình) để sản xuất pháp lam phục vụ cho nhu cầu kiến thiết, trang trí nội ngoại thất các cung điện ở Huế, cũng như dùng làm vật dụng cho nhu cầu sinh hoạt và tế tự trong cung.

Về mặt chức năng, pháp lam Huế là một loại vật liệu kiến trúc, cốt làm bằng đồng, bên ngoài có tráng nhiều lớp men nhiều màu; tính năng chịu đựng rất cao các tác động ngoại lực, nhiệt độ, tác hại của mưa nắng và thời gian. Vì thế, loại vật liệu này thường được sử dụng để tạo thành các đồ án trang trí hình khối gắn trên đầu đao, đỉnh nóc, bờ quyết… của các cung điện như Điện Thái Hòa (Đại Nội, Huế), Điện Hòa Khiêm (Lăng Tự Đức), Điện Biểu Đức (Lăng Thiệu Trị); hoặc tạo thành các mảng trang trí phẳng, có hình vẽ phong cảnh, hoa cỏ, chim muông, thơ văn chữ Hán… gắn trên các dải cổ diêm ở bờ nóc hay bờ mái các cung điện, trên các nghi môn trong hoàng cung và lăng tẩm các vua triều Nguyễn ở Huế.

Về mặt mỹ thuật, pháp lam Huế là những tác phẩm nghệ thuật có tạo dáng đa dạng, màu sắc rực rỡ, đề tài trang trí phong phú và sinh động. Đồ gia dụng, đồ tế tự và các mỹ thuật phẩm làm bằng pháp lam trưng bày trong các cung điện, lăng tẩm ở Huế còn được coi là những cổ vật quý giá mà triều Nguyễn để lại cho hậu thế. Dần dà, pháp lam Huế cùng lan ra các gia đình dân thường bên ngoài cung đình.

Dưới triều Tự Đức, Pháp lam tượng cục cũng sản xuất nhiều sản phẩm pháp lam dùng để phục vụ nhu cầu của triều đình, nhưng chỉ duy trì liên tục trong giai đoạn 10 năm đầu. Từ năm 1858, chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chính trị trong nước không ổn định, nền kinh tế suy yếu, hoạt động của Pháp lam tượng cục và các tượng cục khác dần đi vào suy thoái, và chấm dứt hoạt động vào cuối triều Đồng Khánh (1885-1889).

Các ảnh dưới đây có nguồn từ Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế.

Các nhà sưu tầm và nghiên cứu cổ vật trên thế giới chỉ quan tâm đến pháp lam Trung Hoa và pháp lam Nhật Bản, do hai nước này là những cường quốc về kỹ nghệ chế tác đồ pháp lam. Vì các nhà nghiên cứu Âu Mỹ không có thông tin về nghề làm pháp lam ở Việt Nam vào thời Nguyễn, nên khi sưu tầm được những món pháp lam Huế, họ thường xếp chúng vào sưu tập pháp lam Trung Hoa. Trần Đức Anh Sơn (2017) cho biết, trong chuyến nghiên cứu cổ vật Việt Nam ở Châu Âu vào mùa thu năm 2004, ông có viếng thăm kho của Bảo tàng Dân tộc học Berlin (Đức) và nhìn thấy 3 món pháp lam Huế để lẫn trong sưu tập pháp lam Quảng Đông (Trung Hoa). Khi ông nói những món pháp lam này do Pháp lam tượng cục ở Huế chế tác vào giữa thế kỷ 19, thì TS. Siegmar Nahser, Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Berlin, rất ngạc nhiên. Ông cho biết: “Những cổ vật này đến từ Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á của Đông Đức trước đây. Sau ngày nước Đức thống nhất, các bảo tàng ở Đông Berlin và Tây Berlin sát nhập với nhau, nên có nhiều hiện vật chưa được thống kê và kiểm định trở lại. Chúng tôi cứ nghĩ những cổ vật này là pháp lam Trung Hoa nên để chúng trong sưu tập Trung Hoa”. Bảo tàng Dân tộc học Muenchen (Đức) cũng lưu giữ khoảng chục món pháp lam Huế, trong đó có một chiếc bình dâng rượu cúng trang trí ngũ phúc triều thọ thật đẹp.

Còn trong kho của Bảo tàng Mỹ thuật Rennes (Pháp) thì có cả một sưu tập pháp lam chừng vài chục món, để lẫn với mấy món đồ đồng và đồ ngà cũ kỹ trong một góc kệ. TS. Françoise Coulon, quản thủ bảo tàng, cho biết: “Cách đây hơn 15 năm, bảo tàng chúng tôi nhận được một nhóm cổ vật do những người lính Légionnaires quê ở vùng Bretagne, từng tham chiến ở Đông Dương, hiến tặng, trong đó có những món đồ này. Tôi không nghiên cứu về nghệ thuật Châu Á nên không có nhiều thông tin về nhóm hiện vật này. Vì thế, đành tạm xếp chúng vào nhóm hiện vật chờ giám định”.

Đó là những quả hộp, chậu kiểng và các bộ đồ uống trà trong hoàng cung Huế trước đây, được chế tác dưới thời Minh Mạng (trị vì 1820–1841) và Thiệu Trị (trị vì 1841–1847). Trên những món pháp lam này còn dán những chiếc tem nhỏ ghi rõ xuất xứ từ Annam tức xứ Trung Kỳ, theo cách phân chia thời Pháp thuộc. Hai xứ kia là Tonkin, tức Bắc Kỳ và Cochinchine, tức Nam Kỳ, cũng xuất hiện trên những chiếc tem dán lên một số hiện vật khác.

Trần Đức Anh Sơn (2017) giới thiệu những hình ảnh dưới đây.

Trần Đức Anh Sơn (2018) giới thiệu những hình ảnh dưới đây thuộc bộ sưu tập của Loan de Fontbrune, người Pháp gốc Việt, một nhà sưu tập tranh có tiếng ở Paris.

Ngoài việc trùng tu những công trình xưa cũ, người dân xứ Huế cũng phát triển hai loại hình là pháp lam trang trí nội thất và pháp lam trang trí đồ gia dụng. Các sản phẩm của kỹ thuật pháp lam hiện nay như các bức tranh treo tường đơn chiếc hoặc một bộ gồm nhiều tranh, các dạng đèn ngủ, đèn đường, bàn ghế, bình phong… trang trí nội ngoại thất; bình, lọ, bát pháp lam trang trí và các hộp đựng trang sức, mặt dây, vòng tay trang sức làm quà tặng. Những sản phẩm này dần dần được nhiều người đón nhận. Chúng không chỉ làm nên nét độc cho mảnh đất cố đô mà còn giúp phát triển nghệ thuật truyển thống đã bị mai một suốt bao lâu nay. (Hồ Liên, 2019)

Phạm Lãi

Phạm Lãi là một tướng tài, giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô, dựng nước Việt.

Xem: Ðào CôngTây Thi.

Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão (1255–1320) là danh tướng Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – người được xem như vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử quân sự phong kiến Việt Nam.

Phạm Ngũ Lão là người Làng Phù Ủng, Huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là Làng Phù Ủng, Xã Phù Ủng, Huyện Ân Thi, Hưng Yên).

Ngay từ thuở nhỏ, cậu bé Ngũ Lão đã tỏ ra khác thường, tính tình khẳng khái. Khi ở làng có người đỗ Tiến sĩ (Bùi Công Tiến) tổ chức ăn mừng, cả làng kéo đến, riêng Ngũ Lão thì không. Người mẹ hỏi con tại sao không đến, Ngũ Lão thưa với mẹ: chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm.

Cũng thời gian ấy, Hưng Đạo Vương có việc quân qua vùng đất Phù Ủng. Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt ngoài đường mải nghĩ về cuốn Binh thư nên không biết quan quân trảy đến. Một người lính dẹp đường quát mãi, chàng trai đan sọt vẫn cứ ngồi yên. Người lính bèn dùng giáo xuyên vào đùi kẻ cản đường, vậy mà người đan sọt cứ như không. Tướng công thấy vậy bèn ra nói chuyện với chàng trai. Qua đối đáp trôi chảy của chàng trai nông dân, Tướng công thầm hiểu đây sẽ là một vị lương tướng của triều đình. Ông sai lính lấy thuốc trị vết thương rồi cho mời về triều.

Sau khi về kinh đô, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão lên triều đình với chức cai quản quân cấm vệ. Vệ sĩ biết ông là nông dân thì không phục bèn xin tâu được cùng ông thử sức. Phạm Ngũ Lão bằng lòng, nhưng trước khi vào đấu sức, ông xin về quê 3 tháng. Về quê, ngày nào Phạm Ngũ Lão cũng ra cái gò lớn ngoài đồng, đứng cách một tầm mà nhảy lên, nhảy mãi cho đến khi cái gò bị sạt mất một nửa. Hết hạn, ông trở về cấm thành, cùng các vệ sĩ so tài. Thấy ông tiến thoái như bay, tay đấm, chân đá thoăn thoắt, xem ra sức có thể địch nổi cả vài chục người. Từ đó, quân vệ sĩ bái phục ông.

Trong hai cuộc chiến chống quân Nguyên–Mông, Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên–Mông lần thứ hai, ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương và Hàm Tử, đánh tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên–Mông lần thứ ba năm 1287, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên Sông Bạch Đằng. Trong trận này, quân Nhà Trần bắt sống các tướng nhà Nguyên là Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.

Năm 1290, Vua Trần Nhân Tông giao cho Phạm Ngũ Lão cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại Tướng quân. Năm 1294, nhờ lập công khi đi đánh Ai Lao, ông được ban Kim Phù (binh phù làm bằng vàng). Năm 1297, cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (binh phù có khắc chạm hình mây). Năm 1301, ông được phong làm Thân Vệ Đại Tướng quân và được ban Quy Phù (binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời Vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng Tướng quân, tước Quan Nội Hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của Vua Anh Tông.

Phạm Ngũ Lão ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành: vào năm 1312 buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng, và năm 1318 Vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java.

Sau khi Phạm Ngũ Lão mất, Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày và phong ông là Thượng Đẳng Phúc Thần, đây là một đặc ân của nhà Vua đối với ông.

Nhân dân Xã Phù Ủng dựng đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền nhà cũ của ông, được gọi là Đền Ủng.

Phạm Ngũ Lão cũng thường được phối thờ cùng với Trần Hưng Đạo, như tại Đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương; Đền thờ Trần Hưng Đạo ở Tp HCM; Đền thờ Đức Thánh Trần ở Thanh Hóa; Đền Cửa Tây (một trong Tứ trấn Lạng Sơn); Đền Trần Nam Định…

Phạm Quỳnh

Phạm Quỳnh (1892–1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần Triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.

Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, tốt nghiệp Trường Trung học Bảo hộ (tức Trường Bưởi, còn được gọi là trường Thông ngôn) và đỗ đầu bằng Thành chung (đến thời Việt Nam Cộng hòa được gọi lả bằng Trung học Đệ Nhất cấp sau khi học tương đương lớp 10 ngày nay).

Hoạt động báo chí, văn hóa xã hội

Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.

Từ năm 1916, Phạm Quỳnh tham gia viết cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí trong giai đoạn 1917–1932, thường có ý tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề huề”.

Trong giai đoạn 1924–1932, Phạm Quỳnh còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.

Năm 1919, Phạm Quỳnh sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức (Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội), và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.

Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, Phạm Quỳnh sang Pháp dự Hội chợ Triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.

Năm 1924, Phạm Quỳnh được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France–Indochine.

Trong giai đoạn 1925–1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926 ông làm việc ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.

Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp thành lập hiến pháp nhằm quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Năm 1931, Phạm Quỳnh được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ Xã hội Bắc Kỳ.

Thượng thư Nam triều

Năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, Phạm Quỳnh được triều đình Nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, nên ông thôi làm chủ bút Nam Phong tạp chí. Tại Huế, thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học rồi giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1942–1945).

Phạm Quỳnh được xem là người có quan điểm ủng hộ việc tự trị của Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), và kiên trì chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến. Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều người đương thời chỉ trích vì thái độ thân Pháp và thực dân cộng tác với chính quyền Pháp.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Bảo Đại muốn tạm cử Phạm Quỳnh là người thay mặt chính phủ Việt Nam để giao thiệp với Nhật. Ông Phạm Khắc Hòe, Tổng lý Ngự triều Văn phòng của triều đình, nói với Bảo Đại rằng: “Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới trí thức khinh bỉ… cho nên nếu nhà Vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa”. Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy là hai vị thượng thư tương đối có uy tín trong Hội đồng Cơ mật và trong quan trường nói chung đều nói với ông Phạm Khắc Hòe là “cần làm cho nhà Vua thấy rõ bản chất xấu xa và nguy hiểm của Phạm Quỳnh”. Nhật cũng không muốn dùng một con người bị nhiều điều tiếng như Phạm Quỳnh nên dùng Trần Trọng Kim, một con bài chính trị được họ chuẩn bị từ nhiều năm trước. (nguoikesu.com)

Giáo sư Nguyễn Văn Trung dẫn ý kiến của bác sĩ Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Trần Trọng Kim nói về Phạm Quỳnh như sau:

“  Sau đảo chính 09-3-1945, khi tiếp thu Bộ Lại của ông Phạm Quỳnh, cụ [Trần Đình Nam] thấy một tủ sách niêm phong kỹ của viên cố vấn chánh trị người Pháp, cụ ra lệnh mở ra và đọc những tài liệu ghi các việc người Pháp chỉ thị cho Phạm Quỳnh thi hành và họ đã dùng những chữ rất khinh bỉ để gọi Phạm Quỳnh như một tay sai dễ bảo, trung thành. Cụ không muốn nói rõ những chữ đó là gì, cũng không muốn kể lại những việc Pháp ra lệnh cho Phạm Quỳnh làm là những việc gì, nhưng cụ có nói một câu để tóm lược tất cả: đó là những việc làm của một người phản quốc. Thế là đủ hiểu và cụ nói tiếp, từ đó tôi hoàn toàn thất vọng và khinh Phạm Quỳnh”.

Phạm Quỳnh và bản án tử hình

Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao Thừa Phủ, Huế.

Phạm Quỳnh bị xử bắn sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên Chùa Vạn Phước.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Phạm Quỳnh lui về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.

Cuối tháng 8-1945, Pháp cho quân nhảy dù tìm cách bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi (anh cùng cha khác mẹ với Ngô Đình Diệm) và Phạm Quỳnh để đánh chiếm Huế, thiết lập lại chế độ do Pháp thống trị miền Trung Việt Nam. Toán quân nhảy dù Pháp bị du kích địa phương bắt được nên kế hoạch bại lộ. Phạm Quỳnh bị Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt giữ theo lệnh khẩn của Mặt trận Việt Minh và áp giải ra khỏi Huế cùng với Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Ba người bị xử bắn không lâu sau đó.

Năm 1956, hai con của Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Hảo và Phạm Tuân, lúc này định cư tại Hoa Kỳ, được theo đoàn tìm mộ cha con Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, tìm được di hài cha của họ trong khu rừng Hắc Thú. Theo lời các nhân chứng thì Phạm Quỳnh chết vào đêm 6 rạng ngày 7 tháng 9 năm 1945. Di hài Phạm Quỳnh được cải táng trong khuôn viên Chùa Vạn Phước, Huế. (vi.wikipedia.org)

Theo lời kể của Trần Huy Liệu do Nhật Hoa Khanh (2006) thuật lại:

“  Cái chết của Phạm Quỳnh là hậu quả tất yếu của chủ nghĩa tả khuynh ở một địa phương cụ thể, chủ nghĩa tả khuynh ở địa phương này (và một số không ít địa phương khác) lạc lõng trong toàn bộ cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đại đoàn kết toàn dân và cơ bản không đổ máu do đường lối chính sách của Hồ Chí Minh.”

“  Trong bão tố của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhận rõ sự tàn phá khốc liệt của thực dân Pháp đối với văn hóa truyền thống của dân tộc ta, Phạm Quỳnh muốn chống lại. Tuy nhiên, lượng sức mình không đủ can đảm dấn thân vào con đường cách mạng kiên cường, khó khăn, gian khổ và luôn luôn phải đối mặt với cái chết như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh v.v…, Phạm Quỳnh tìm một con đường khác dù sao cũng ít gian khổ hơn nhiều. Đó chính là con đường đấu tranh công khai và hợp pháp trên lĩnh vực văn hóa! Đấu tranh công khai và hợp pháp trên lĩnh vực văn hóa tuy có những thuận lợi nhưng cũng không êm đềm và thanh thản! Chắc chắn Phạm Quỳnh ý thức sâu sắc được điều đó!!! Ông biết cách nắm lấy một cơ quan ngôn luận công khai và hợp pháp của thực dân Pháp và dùng chính cơ quan này để truyền bá khéo léo, giữ gìn khéo léo một phần tinh hoa của văn hóa Việt Nam đồng thời giới thiệu với bạn đọc một phần tinh hoa văn hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp. Và Phạm Quỳnh đã thành công, thành công về căn bản.

“  Giữa những cặp mắt cú vọ của bộ máy mật thám Pháp về văn hóa (trong đó có cặp mắt lão luyện của Marty), trong sự hiểu lầm (sự hiểu lầm chân thành!) của nhân dân, nhất là của tầng lớp trí thức nho học và tây học yêu nước, Phạm Quỳnh ngậm đắng nuốt cay để tập trung công sức vào việc góp phần nuôi dưỡng rừng cây văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có cây đại thụ Truyện Kiều, tiếp tục tươi xanh, không tàn úa! Ông chịu đựng tất cả, tất cả những lời nguyền rủa, những lời buộc tội, thậm chí chịu đựng cả cuộc hành hung bột phát của một nhóm sinh viên Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám!

“  Tên ông đồng nghĩa với bán nước, với tay sai đắc lực của thực dân Pháp, với bán nước cầu vinh!!! Mặc!!! Ông chịu đựng, lặng lẽ chịu đựng!

“  Chắc chắn Phạm Quỳnh biết rõ mặt trận văn hóa hợp pháp và công khai chống thực dân có những khó khăn riêng không nhỏ.

“  Dưới sức ép tinh vi và trắng trợn của các chính sách văn hóa thực dân, Phạm Quỳnh đứng lên một cách khó khăn và kiên nhẫn trên lĩnh vực báo chí công khai và hợp pháp như một nhà văn hóa yêu nước. Và đóng góp của ông cho dân tộc chủ yếu thuộc lĩnh vực văn hóa và báo chí.

“  Trên cương vị Thượng thư Bộ Học và Thượng thư Bộ Lại, Phạm Quỳnh không có một hành động nào chống phá phong trào giải phóng dân tộc hoặc chống phá Đảng Cộng sản Đông Dương.

“  Tất cả những ai cùng thời với ông đều thừa nhận ông là một Thượng thư liêm khiết. Trước khi bùng nổ Cách mạng tháng Tám, Phạm Quỳnh đã về hưu. Đêm đêm, trong biệt thự Hoa Đường (ngoại ô Thành nội Huế), một mình một ngọn đèn khuya, con người đã từng giữ hai chức vụ cao nhất Bộ Học và Bộ Lại lặng lẽ đọc sách, suy nghĩ và viết.”

Ghi chú: Vào khoảng thời gian Phạm Quỳnh bị xử bắn, ở Nam Bộ có vấn nạn tổ chức địa phương của Việt Minh xử tử những người bị nghi ngờ là phản quốc, theo cách “thà xử nhầm còn hơn tha nhầm”. Chỉ có một ít tình tiết nghi ngờ, nạn nhân bị xử tử bằng cách bị cột vào một tảng đá hoặc một khúc gỗ rồi bị ném xuống nước. Người đương thời gọi cách xử tử này là “mò tôm”. Nạn nhân bị cho “mò tôm” không được tự biện hộ, hoặc có biện hộ chẳng được xem xét.

Người tổng hợp bài này được biết một trường hợp cụ thể. Một thiếu nữ tham gia chống Pháp với cương vị giao liên, tức là đưa tin tức, chỉ đạo từ nơi này sang nơi khác, đi qua vùng kiểm soát của Pháp hoặc của Việt Minh. Có lần, cô này đi qua một vùng thuộc Việt Minh và bị cán bộ Việt Minh bắt giữ. Dĩ nhiên là giao liên không có giấy tờ chính thức chứng minh nhân thân hoặc nhiệm vụ, để giữ bí mật. Thay vào đó, nhờ ít vốn liếng tiếng Pháp cô giao liên này giữ trong người một tập thơ tiếng Pháp gồm những bài thơ của Alphonse de Lamartine, Molière… Dân quân Việt Minh thất học nào hiểu được chữ Pháp nhưng vẫn nhận ra đó là chữ Pháp. Lại thấy sợi chỉ màu đỏ đánh dấu trang của tập thơ, thế là kết luận: ba màu mực xanh, giấy trắng, chỉ đỏ ám chỉ ba màu cờ tam tài của thực dân Pháp để những “Việt gian” nhận ra nhau. Cán bộ Việt Minh nghĩ đơn giản: Kháng chiến đâu có phụ nữ trẻ biết đọc chữ Pháp, thế này là tay sai của Pháp đi dọ thám đây đó chứ chẳng phải giao liên của bên mình. Cô giao liên bị kết án đi “mò tôm” cho dù cố biện bạch mà không đưa ra được chứng cứ nào. May mắn cho cô, trong khi đang chờ đến tối để bị cho “mò tôm” thì có một cán bộ Việt Minh đi qua, thấy cô giao liên thì cất tiếng: “Ủa, Chị Hai? Chị làm gì ở đây?” Cô giao liên rầu rĩ trả lời: “Họ sắp cho tôi đi mò tôm!” Nhờ có cán bộ đó xác minh mà cô giao liên này được tha. Về sau, trong thời kỳ phân chia hai miền cô giữ chức cao trong Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Nội và nhờ vốn tiếng Pháp được cử giao tiếp với các phái đoàn nước ngoài nói tiếng Pháp đến thăm viếng miền Bắc. Nếu bị xử tử oan uổng bằng cách “mò tôm” thì miền Bắc không có được một phụ nữ giỏi giang như thế.

Chắc hẳn là trong thời kỳ của cô giao liên này, có nhiều người không được may mắn như cô nên bị chết oan ức như Phạm Quỳnh, mà trung ương không nhận trách nhiệm, đổ lỗi cho sai lầm ở các địa phương tự ra quyết định xử chết, đôi khi còn biện hộ đó là do tinh thần cách mạng hăng say. Nhưng người ta không thấy chỉ thị nào từ trung ương ngăn cấm hoặc chỉnh đốn vấn nạn giết lầm như thế. Hay đây là cách “nhắm một mắt mở một mắt” để trừ khử những người không theo phe mình chứ chưa đến mức nghi theo Pháp? Số phận con người trong thời chiến nhiễu nhương thật long đong!

Hai cống hiến của Phạm Quỳnh

Theo Nguyễn Hải Hoành (2019), học giả Phạm Quỳnh có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn hóa nước nhà, trong đó có hai cống hiến ông tự coi là phát minh đáng kỷ niệm trong một đời.

Sau khi bình định xong các cuộc nổi dậy của người Việt, thực dân Pháp bắt đầu thi hành chiến lược đồng hóa dân Việt bằng văn hóa. Chính quyền thuộc địa dùng các biện pháp hành chính mở rộng giảng dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp, hạn chế giáo dục chữ Hán. Tây học bắt đầu hưng thịnh, Hán học dần suy tàn.

Tình hình lúc đó được Phạm Quỳnh diễn tả như sau (đại ý):

“  Ta đang ở chỗ giáp giới hai nền văn minh. Văn minh phương Đông cũ kỹ nhưng là cái vốn có của ta, bỏ đi không nỡ; văn minh phương Tây mới mẻ nhưng tự ngoài đem lại, thâu lấy cũng khó…Tuy cứ bề ngoài mà xét, tựa hồ như có bên thắng bên bại, tình thế đã rõ ràng, nhưng người mình đối với bên nào cũng còn lúng túng chưa quyết hẳn theo một phương châm nhất định, không biết nương tựa vào đâu. Các nhà cựu học chán đời không biết làm gì. Phái tân học chủ trương chỉ theo về một đường Tây học. Số nhiều trong quốc dân ta thì mơ màng, có khuynh hướng cứ nhắm mắt mà theo các nước Âu Tây cường thịnh, hà tất phải nghĩ quanh nghĩ quẩn…1.

Phạm Quỳnh gọi đó là cái bi kịch về tinh thần, cái thảm trạng trong các bậc thức giả nước Việt.

Là người nặng lòng với Tổ quốc, dân tộc, lại giỏi cả Hán học lẫn Tây học và được làm việc ở hai trung tâm văn hóa cao nhất nước là Viện Viễn đông Bác cổ và Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh cảm thấy khổ tâm trước thảm kịch trên và tự thấy mình có trọng trách góp phần định hướng sự phát triển nền văn hóa nước nhà. Cho rằng văn hóa quan trọng hơn chính trị, ông chủ trương nước Việt phải tìm cách gây dựng một nền văn hóa riêng, điều đó rất cần cho lẽ sinh tồncủa dân tộc ta.

Về hai cống hiến Phạm Quỳnh tự coi là phát minh đáng kỷ niệm trong một đời, thứ nhất là đưa ra quan điểm đúng đắn về đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam. Phạm Quỳnh cho rằng trước hết phải xác định thái độ đối với hai nền văn hóa Đông và Tây. Muốn vậy phải biết được giá trị chân chính của hai nền văn hóa này, từ đó chọn lấy phần bổ ích cho sự phát triển của nước ta. Qua nghiên cứu, ông nhận định: Văn minh phương Tây chuộng vật chất, khoa học, văn minh phương Đông chuộng tinh thần, đạo đức. Người Âu mê tín khoa học, chỉ chuyên chú khảo sát sự vật, lợi dụng khoa học để làm cho nước họ giàu mạnh. Người Á mê tín đạo đức, cho rằng có thể lấy đạo đức để mưu sự hạnh phúc cho nhân quần và sự hòa bình cho thiên hạ. Văn hóa phương Tây là khoa học, văn hóa phương Đông là đạo học. 

Phạm Quỳnh kết luận: Để gây dựng nền văn hóa Việt Nam, ta cần biết phân biệt và dung hòa hai nền văn hóa Đông và Tây, bỏ mọi cái dở, chỉ chọn lấy cái tốt bổ ích cho ta mà thôi. Phạm Quỳnh suốt đời phấn đấu thực hiện quan điểm của mình. Ông viết rất nhiều trên báo Nam Phong, đi khắp nơi diễn thuyết, giải thích, tuyên truyền cho việc xây dựng nền văn hóa độc lập của nước ta, kêu gọi toàn dân yêu quý và học chữ Quốc ngữ, khuyến khích viết báo viết văn bằng chữ Quốc ngữ, sáng tạo từ ngữ tiếng Việt, phê phán thái độ khinh thường chữ Quốc ngữ, nạn say đắm chữ Tàu, tiếng Pháp của giới trí thức nước ta. (Nguyễn Hải Hoành, 2019)

Cống hiến thứ hai của Phạm Quỳnh đáng kỷ niệm trong một đời, là sáng tạo ra phương pháp dùng tiếng ta để diễn đạt mọi khái niệm, tư tưởng, học thuyết –  phương pháp giúp hấp thu, “tiêu hóa” các giá trị văn hóa tiên tiến của nước ngoài, biến thành cái của ta. Ông gọi đó là phát minh thứ hai của mình.

Phạm Quỳnh thạo dùng ngôn ngữ nói và viết, và rất quan tâm đến mối quan hệ giữa tư duy của con người với ngôn ngữ. Tư duy hoặc suy nghĩ  (ông gọi là tư tưởng), tất phải biểu lộ ra bằng ngôn ngữ nói hoặc viết. Người bình thường dĩ nhiên chỉ có thể suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ. Nhưng Phạm Quỳnh đi sâu phân tích, đặt câu hỏi: Người trí thức Việt Nam xưa nay tư duy những vấn đề cao sâu bằng ngôn ngữ nào ? Và trả lời : Thời xưa hầu hết các nhà cựu học đều tư duy bằng chữ Hán ; thời nay phần lớn các nhà tân học đều tư duy bằng tiếng Pháp. Phạm Quỳnh phê phán giới trí thức nước ta xưa sùng bái chữ Hán, nay sùng bái tiếng Pháp, chung kiếp làm nô lệ tinh thần cho nước ngoài.

Phạm Quỳnh cho rằng việc tư duy bằng chữ Hán hoặc tiếng Pháp đều lợi bất cập hại. Như thế thời dẫu là tư tưởng riêng của mình mà một nửa thành ra Tây hay Tàu vậy. Khổ tâm vì điều đó, ông bèn nghĩ ra một cách (ông gọi là phương tiện) để bổ cứu. Ông đặt câu hỏi : Vì sao người trí thức nước ta không suy nghĩ bằng tiếng ta? Và ông làm một thí nghiệm riêng cho mình: Cố gắng dùng tiếng mẹ đẻ để diễn đạt bằng được các suy nghĩ, tư tưởng của mình; tư tưởng nào không nói ra được bằng tiếng ta thì ông coi đó chưa phải là tư tưởng của mình, vẫn là thứ đi mượn. Phạm Quỳnh nhận thấy khi diễn đạt được bằng tiếng Việt một tư tưởng Tây Tàu nào đó thì nó sẽ được đầu óc ta lọc đi một lần, vì thế dễ bị ta “tiêu hóa”, biến thành tư tưởng của ta. Như vậy việc dùng tiếng mẹ đẻ để diễn tả mọi tư tưởng, khái niệm, để sáng tác mọi tác phẩm văn hóa, văn học sẽ giúp cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc ta. (Nguyễn Hải Hoành, 2019)

Nói chung, Phạm Quỳnh từ chỗ bị coi là một “bóng đen” trong lịch sử chính trị suốt một thời gian dài, đến thời kỳ Đổi mới dần dần được rọi sáng, lộ sáng, để từng bước hiện ra chân dung một “nhà văn hóa tiên phong” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) trong buổi đầu nền văn hóa hiện đại Việt Nam. Địa vị và vai trò của Phạm Quỳnh đối với văn hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ 20 ngày càng được khẳng định. Các sách ông viết và tập hợp bài viết của ông lần lượt được in lại. Các sách viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông được in ra. Các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ về tạp chí Nam Phong được bảo vệ ở nhiều trường đại học. (nguoidothi.net.vn)

Năm 2018, Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh  vinh danh Phạm Quỳnh là “Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại”.

Tác phẩm

Phạm Quỳnh là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.

Dịch thuật

Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ văn… Phạm Quỳnh dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille. (vi.wikipedia.org)

Khảo luận

Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu. Ông nghiên cứu trong các sách chữ Nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng là:

** Các học thuyết Âu Tây, như trong Văn minh luận, Khảo về chính trị nước Pháp, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaire, v.v…

** Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông như Phật giáo lược khảo, Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng, v.v…

** Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục ngữ ca dao, tới Việt Nam thi ca, tới Văn chương trong lối hát ả đào.

Nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người “chính nhân” (là chữ ông dùng cho l’honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam.

Văn du ký

Phạm Quỳnh viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như:

Mười ngày ở Huế (1918)
Một tháng ở Nam Kỳ (1919)
Pháp du hành trình nhật ký (1922)

Một số tác phẩm chính

Cái quan-niệm của người quân-tử trong triết-học Đạo Khổng in năm 1928
Văn minh luận
Ba tháng ở Paris
Văn học nước Pháp
Chính trị nước Pháp
Khảo về tiểu thuyết
Lịch sử thế giới
Lịch sử và học thuyết Voltaire
Phật giáo đại quan
Thượng Chi văn tập gồm 5 quyển, Nhà Xuất bản Alexandre de Rhodes Hanoi ấn hành năm 1943.
Tục ngữ – Ca dao (1932) – Đông Kinh ấn quán.

Hậu duệ

Trong số các người con của Phạm Quỳnh, có:

  • Trưởng nữ là bà Phạm Thị Giá, vợ của Giáo sư Tôn Thất Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Thăng Long. PGS TS KTS Tôn Thất Đại là trưởng nam của hai ông bà, tức là cháu ngoại của Phạm Quỳnh.
  • Người con cả là Phạm Giao (sinh năm 1911), kết hôn với bà Nguyễn Thị Hy, con gái ông Nguyễn Văn Ngọc, bà Hy là vợ ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng đầu tiên của Viện Sử học, Viện sĩ Thông tấn của Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Dân chủ Đức.
  • Phạm Thị Thức (sinh năm 1915), vợ của Giáo sư Đặng Vũ Hỷ. Hai ông bà có người con trai là Đặng Vũ Minh, Giáo sư Tiến sĩ, Chủ tịch Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam.
  • Phạm Thị Ngoạn (sinh năm 1921), Tiến sĩ Văn chương, vợ của nhà văn Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng.
  • Phạm Khuê (1925–2003), cố Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa, nguyên Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa X.
  • Phạm Tuyên (1930  – ), nhạc sĩ, Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội.

Phạm Thư

Phạm Thư (tên Hán: 范 雎, tên phiên âm tiếng Anh: Fan Ju, ? – 255 tCN), là người nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Hoa, phục vụ Tần Chiêu Tương Vương (trị vì 306–250 tCN). Ông chẳng những là một vị thừa tướng giỏi trong lịch sử của nước Tần, mà còn là một nhà chánh trị và nhà chiến lược thời cổ hiếm có của Trung Hoa.

Phạm Thư là người đặc biệt thân cận của Tần Chiêu Tương Vương, đối với trên ông là người kế thừa thành quả của Hiếu Công và Thương Ưởng đã thay đổi pháp luật để đổi mới nước Tần trở thành cường thịnh, đối với dưới ông là người tạo nền tảng cho Tần Hoàng và Lý Tư hoàn thành sự nghiệp thống nhất Trung Nguyên. Ông là một mưu lược gia có thành tích về hai mặt chính trị và ngoại giao. Ông làm thừa tướng cho nước Tần mười năm, đối nội làm được việc rất khó khăn là loại trừ ngoại thích làm băng hoại triều đình, chặn đứng mọi tiêu cực, củng cố chế độ trung ương tập quyền vừa mới nảy sinh. Đối ngoại ông cực lực chủ trương chính sách “giao hảo với nước xa, tấn công nước gần”, để xây dựng nền tảng vững chắc cho nước Tần thống nhất Trung Nguyên sau này.

Cuộc đời Phạm Thư liên quan đến những mẩu chuyện về trí thông minh cùng những tranh luận sắc bén rất đáng tìm hiểu.

Buổi sơ khai

Phạm Thư thuở nhỏ nhà nghèo, muốn đi khắp thiên hạ để du thuyết các chư hầu, thi triển kinh luân đầy bụng của mình, nhưng khổ nỗi nhà ông chỉ có bốn tấm vách trống trọn, trong túi thì trống rỗng, không tiền bạc, nên không có thể đi đâu được. Sau đó, ông có ý giúp nước Ngụy trở thành một quốc gia có binh lực hùng mạnh và một nền kinh tế sung túc. Nhưng vì không ai tiến cử, lại không có tiền để mua chuộc người có quyền thế mà tìm cách tiến thânn, nên cũng đành chịu. Sau nhiều ngày suy nghĩ, ông đến xin làm môn hạ tại phủ của quan Trung Đại phu là Tu Giả, để chờ đợi thời cơ.

Đi sứ Tề bị vu cáo

Ít lâu sau, Ngụy Vương phái Tu Giả đi sứ nước Tề. Phạm Thư với tư cách là xá nhân tùy tùng được đi theo. Năm đó, Tề Dẫn Vương là một ông vua vô đạo, nên đại tướng nước Yên là Nhạc Nghị (có nguồn chép là Lạc Nghị) quy tụ bốn nước, cùng kéo binh đánh Tề, trong đó có cả nước Ngụy. Dưới sự chỉ huy của Nhạc Nghị, liên quân các nước tiến tới đâu thắng tới đó, liên tiếp hạ được hơn bảy mươi thành của nước Tề, và nhanh chóng chiếm được quốc đô của nước này là Lâm Tri. Chỉ riêng có hai thành Cứ và Tức Mặc thì không hạ được. Về sau, do tướng Tề là Điền Đơn sứ dụng trận “hỏa ngưu” đại phá được liên quân của năm nước, nên nước Tề mới được phục hưng. Xem: Điền Đan.

Sau khi Tề Tương Vương lên nối ngôi, ông gắng sức chấn chỉnh đất nước làm cho nước Tề càng cường thịnh. Vua Ngụy lo sợ nước Tề sẽ trả thù, nên mới phái Tu Giả đến Tề để giao hảo.

Sau khi Tu Giả đến nước Tề, Vua Tề đối với ông không vị nể, lên tiếng quở trách thẳng thừng. Nhà vua bảo Ngụy là nước phản phúc vô thường, lại bảo cái chết của tiên vương là Tề Dẫn Vương có liên quan tới nước Ngụy, làm cho mọi người đều căm hận Ngụy. Đối với những lời chỉ trích mạnh mẽ của vua Tề, Tu Giả không biết đối đáp như thế nào.

Phạm Thư thấy vậy ung dung biện bác, nghiêm giọng nói rõ:

“  Tề Dẫn Vương là người kiêu ngạo lại tàn bạo. Sau khi đánh bại nước Sở và Tam Tấn cũng như tiêu diệt được nước Tống, lỊ còn muốn sát hại thiên tử Nhà Chu để thay thế địa vị đó. Bản thân Tề Dẫn Vương không biết tự lượng sức, nên mới trở thành kẻ thù của năm nước, chứ nào phải Của một mình nước Ngụy đâu. Nay Đại vương là anh hùng cái thế, vậy nên tiếp nối thành tích huy hoàng của Tề Hoàn Công, Tề Uy Vương để chấn chỉnh nước Tề thì mới tốt. Nếu chỉ biết so đo về những ân oán trong thời Tề Dẫn Vương, luôn trách cứ người khác mà không biết tự kiểm điểm mình, thì e rằng Đại vương lại đi vào vết xe đổ của Tề Dẫn Vương trước kia thôi.”

Tê Tương Vương từ lâu đã nghe nói Phạm Thư là người ăn nói hoạt bát, kiến thức rộng rãi, lại có chí an bang định quốc, nay trực tiếp nghe những lời hùng biện không tự ti mà cũng không tự cao, có tình có lý của Phạm Thư, trong lòng nhà Vua không khỏi kính nể.

Ngay đêm đó, nhà Vua phái người đi dẫn dụ Phạm Thư, có ý muốn giữ ông ở lại nước Tề và hứa sẽ phong làm Khách khanh. Phạm Thư nghe qua, từ chối: “Tôi cùng sứ giả của nước Ngụy đi sứ sang nước Tề, nếu không cùng họ trở về nước là người thiếu tín nghĩa. Như vậy, về sau tôi còn mặt mũi nào để làm người!”

Viên thuyết khách trở về báo lại với Tề Vương. Nghe qua, Tề Vương lại càng kính trọng Phạm Thư hơn, nên ban cho ông mười cân vàng, còn ban thêm cả thịt bò và rượu.

Phạm Thư lần đầu tiên đi sứ, trên vai có trách nhiệm, nên một lần nữa ông từ chối.

Tu Giả là người giữ vai trò chính sứ, thế mà bị Vua Tề cư xử với một thái độ lạnh nhạt. Trong khi đó, Vua Tề lại ban nhiều ân huệ cho người tuỳ tùng, trong lòng ông ta cảm thấy thật bất mãn.

Sau khi nghe Phạm Thư báo cáo mọi việc đúng sự thật, Tu Giả ra lệnh cho Phạm Thư niêm phong số vàng để trả lại cho Vua Tề, riêng thịt bò và rượu thì giữ lại. Phạm Thư không nói gì, chỉ tuân theo lệnh của Tu Giả. Nhưng ông không làm sao ngờ được, mình đi sứ sang nước Tề không hề bị lợi lộc quyến rũ, giữ khí tiết một cách trong sạch, luôn đứng trên lập trường chính khí, thế mà lại bị kẻ tiểu nhân hại ngầm, suýt nữa mất mạng.

Sau khi trở về nước Ngụy, Tu Giả báo cáo lên Thừa tướng của nước Ngụy là Ngụy Tề (một trong những công tử của Ngụy Vương), bảo Phạm Thư sang Tề đã tự ý nhận hối lộ, và đã bán rẻ tin tức mật của nước Ngụy cho Tề, làm nhục sứ mạng của người đi sứ. Ngụy Tề nghe qua cả giận, không cần biết trắng đen, ra lệnh cho người bắt Phạm Thư rồi dùng cực hình để tra tấn. Phạm Thư bị cực hình đến cả người bầm dập, máu me đầy mình, gãy xương sườn, rụng răng, hết sức bi thảm. Ông giả vờ chết, để chờ cơ hội thoát thân.

Ngụy Tề đích thân xuống xem qua, thấy thân thể Phạm Thư máu me đầm đìa, không còn một chỗ da lành lặn, nằm không cử động, bèn sai tôi tớ dùng chiếu bó xác Phạm Thư lại đem vứt ra cầu xí. Lại bảo những tân khách trong nhà thay nhau đái lên người Phạm Thư, để răn đe những người chung quanh.

Trời tối, Phạm Thư mở mắt lén nhìn, thấy có một tôi tớ ngồi canh giữ. Ông nói khẽ với người này: “Tôi bị trọng thương đến như vầy, dù vẫn còn tỉnh táo nhưng chắc không sao sống được. Vậy xin ngài hãy thương tình cho tôi được chết ở trong nhà, để người nhà tôi tiện việc tẩn liệm. Như vậy người nhà tôi sẽ tạ ân cho ngài.”

Người tôi tớ này trông thấy cảnh ngộ của Phạm Thư thì động lòng, lại tham tiền bạc mà Phạm Thư hứa, nên vào hỏi Ngụy Tề phải xử lý xác chết ra sao.

Ngụy Tề lúc đó đang dự tiệc với các tân khách, uống rượu đã say, nên không đi kiểm tra lại xem đúng sự thật hay không, chỉ ra lệnh cho người tôi tớ mang xác Phạm Thư vứt ra đồng hoang.

Chờ cho người tôi tớ bỏ đi, Phạm Thư cắn răng chịu đau, cố bò trở về nhà. Sau đó, Phạm Thư đi tìm gặp một người bạn thân là Trịnh An Bình nhờ người này giấu mình vào nhà dân, rồi đổi tên thành Trương Lộc. Phạm Thư dặn dò người nhà sáng sớm ngày hôm sau thì phát tang.

Quả nhiên đúng như mọi tiên liệu của Phạm Thư, qua ngày hôm sau, khi Ngụy Tề tỉnh rượu, có lòng nghi ngờ Phạm Thư chưa chết, nên lại sai người ra đồng hoang để xem qua, thấy chỉ còn một manh chiếu nên lại cho người đến nhà Phạm Thư để dò xét. Người này tới nơi, thấy gia đình Phạm Thư đang làm lễ tang, nên tin Phạm Thư đã chết thực, còn xác thì bị chó hoang tha đi ăn hết rồi. Từ đó, Ngụy Tề mới không còn nghi ngờ chi nữa.

Trên đường đến Tần

Nửa năm sau, 271 tCN), Tần Chiêu Tương Vương phái sứ thần là Vương Kê sang nước Ngụy. Nước Tần kể từ ngày Thương Ưởng cải cách pháp luật trở đi, có một chính sách truyền thống: “Người tiến cử hiền tài thì cùng được thưởng như người được tiến cử; ai tiến cử người không tốt thì cũng có tội liên đới”. Nói cụ thể, phàm ai tiến cử người có tài năng (bất luận người đó ở đâu, xuất thân cao sang hay bần tiện), chỉ cần lập được đại công cho nước Tần, hoặc có những cống hiến xứng đáng, thì sẽ được Tần Vương tưởng thưởng. Và, người đã tiến cử trước đây cũng được tưởng thưởng y như vậy. Trái lại, nếu tiến cử người không có tài năng, hoặc là kẻ xấu, làm điều có hại cho nước Tần, phạm phải trọng tội, thì người tiến cử cũng bị liên đới, cũng bị hình phạt giống như người mình đã tiến cừ.

Kể từ ngày ban bố chánh sách đó, những người hiểu biết ở nước Tần luôn lưu ý để tìm người có tài năng. Trong nhất thời, nhiều kẻ sĩ có tài năng khắp trong sáu nước, đều đua nhau đi tới nước Tần. Do vậy, Tần tập họp được đông đảo người tài, và tiến nhanh trên con đường nước giàu binh mạnh. Từ chỗ là một tiểu quốc không được mọi người trọng thị ở Tây Nhung, nước Tần dần dần vươn lên đứng trong hàng ngũ của những cường quốc. Trước tiên, Tần trở thành một trong Ngũ bá thời Xuân Thu. Kế đó, lại trở thành nước đứng đầu trong thất hùng thời Chiến Quốc. Và, cuối cùng thì thống nhất được thiên hạ, xây dựng được một đế quốc Đại Tần chưa từng có. Đấy là chuyện sau này.

Nhắc lại, Trịnh An Bình nghe nói có sứ giả cửa nước Tần đến Ngụy, cho rằng thời cơ đã tới, bèn giả làm người hầu để tới công quán phục dịch Vương Kê. Trịnh An Bình là người nhanh nhẹn, nên tranh thủ được sự yêu thích của Vương Kê. Chỉ một thời gian ngắn, mối quan hệ giữa hai người tỏ ra rất dung hòa, và dần dần không có gì lại không nói cho nhau nghe.

Một hôm, Vương Kê bí mật hỏi riêng Trịnh An Bình: “Ở quý quốc phải chăng có người hiền tài, nhưng chưa có dịp đi làm quan? Những người đó có bằng lòng theo tôi đến nước Tần hay chăng?”

Trịnh An Bình chính vì việc này mà tới đây. Cho nên khi nghe sứ giả hỏi, cố đè nén sự vui mừng trong lòng, bình tĩnh đáp: “Hiện nay trong nhà của thần có một tiên sinh tên gọi Trương Lộc, trí mưu hơn người, do trong nước có người thù, nên không thể xuất đầu lộ diện. Bằng không, thì chắc đã ra làm quan từ lâu rồi, đâu phải chờ cho tới ngày hôm nay.”

Vương Kê vội vàng ngỏ ý cho Trịnh An Bình biết, nếu người đó ban ngày không tiện gặp nhau, thì có thể chờ đêm khuya tới đây gặp ông ta.

Trịnh An Bình bèn bảo Trương Lộc cải trang thành nô bộc, lợi dụng đêm khuya lén tới công quán để gặp Vương Kê. Hai người ngồi cạnh nhau bàn luận đại cuộc trong thiên hạ. Phạm Thư ăn nói thao thao, những lời hay ý đẹp tuôn ra như suối, phân tích mọi vấn đề cụ thể như phơi bày trước mặt. Không chờ Phạm Thư nói hết lời, Vương Kê đã tin Phạm Thư là một nhân tài hiếm có, bèn hẹn với Phạm Thư, chờ khi ông làm việc công xong xuôi, thì xin Phạm Thư đến Tam Đình Cương ở gần biên giới nước Ngụy, chờ đợi để theo ông ta về nước Tần.

Vương Kê làm xong công việc của Vua Tần giao phó, bèn từ biệt Ngụy Vương và quân thần của nước này, lên xe trở về nước Tần. Khi cỗ xe đi đến Tam Đình Cương thì thấy trong rừng bước ra hai người, chính là Trương Lộc và Trịnh An Bình. Vương Kê cả mừng, sau mấy câu hàn huyên, vội vàng mời họ lên xe cùng đi về phía Tây.

Khi cỗ xe đi tới Hồ Quan của nước Tần, từ phía xa xa bỗng thấy cát bụi tung lên mù mịt, rồi thấy một toán xe ngựa chạy ngược chiều sắp tới nơi. Phạm Thư là người luôn cảnh giác, thấy vậy vội vàng hỏi: “Số người sắp đến đó là ai?”

Vương Kê nhận ra số người đi đầu, nên đáp: “Đó là Thừa tướng đương triều của nước Tần, Nhương Hầu Ngụy Nhiễm. Xem ra, có lẽ đi về phía Đông để thị sát tình hình các huyện.”

Phạm Thư quay sang Vương Kê nói: “Tôi nghe nói Nhương Hầu chuyên quyền ở nước Tần, ghét việc đưa những người khách ở các nước chư hầu vào Tần. Tôi sợ ông ta làm nhục tôi, tôi hãy tạm trốn trong xe.”

Một lát sau Nhương Hầu quả nhiên đến ủy lạo Vương Kê, nhân tiện hỏi: “Ở Quan Đông có tin gì mới không?”

Vương Kê đáp: “Bẩm không”.

Nhương Hầu lại nói: “Ông yết giả có đem người khách nào ở chư hầu cùng về đó không? Đem về vô ích, chỉ tổ làm cho nước nhà rối loạn mà thôi!”

Vương Kê đáp: “Không dám ạ.”

Nhương Hầu thấy không có gì khả nghi, bèn ra lệnh cho đoàn xe tiếp tục đi về phía Đông.

Qua cơn sợ hãi, Vương Kê đang định thúc ngựa đi tiếp, thì Phạm Thư từ trong thùng xe chui ra, nói: “Tôi nghe nói Nhương Hầu là người lắm mưu trí, nhưng thấy việc thì chậm. Lúc nãy ông ta nghi trong xe có người nhưng quên lục soát.” Vì vậy Phạm Thư xin xuống xe để chạy, nói: “Thế nào ông ta cũng sẽ hối về việc này.”

Đi được hơn mười dặm, quả nhiên Nhương Hầu sai quân kỵ quay lại lục trong xe. Khi không thấy có khách họ mới thôi. Vương Kê cùng Phạm Thư vào Hàm Dương.

Làm khách khanh ở Tần

Sau khi báo cáo với Vua Tần công việc đi sứ, Vương Kê nhân tiện nói: “Nước Ngụy có ông Trương Lộc là một tay biện sĩ trong thiên hạ. Ông ta nói: ‘Nước Tần nguy như trứng để đầu đẳng. Nếu được ông ta thì sẽ yên ổn. Nhưng điều đó không thể truyền đạt bằng thư từ’. Cho nên thần chở ông ta lên xe về.

Vua Tần không tin, sai cho Trương Lộc ở tại nhà khách, ăn cơm rau, chờ đợi hơn một năm.

Lúc bấy giờ Tần Chiêu Tương Vương đã ngồi trên ngai vàng được 36 năm. Phía Nam, nước Tần đã lấy đất Yên, đất Sính của nước Sở. Sở Hoài Vương bị giữ lại và chết ở đất Tần. Quân Tần phía Đông đánh phá nước Tề, Dẫn Vương đã có lần xưng đế sau đó lại thôi. Tần mấy lần làm cho đất Tam Tấn nguy khốn, chán ghét những kẻ biện sĩ trong thiên hạ, không tin dùng ai.

Khi đó, triều đình Nhà Tần bị khuynh đảo bởi 4 người mà mọi người gọi là “Tứ quý của nước Tần”. Họ là hai người cậu của Tần Chiêu Tương Vương là Nhương Hầu Ngụy Nhiễm và Hoa Dương Quân, thêm hai đệ đệ cùng mẹ là Doanh Khôi Cao Lăng Quân và Doanh Phất Kính Dương Quân. Nhờ thế lực của Thái hậu nên nhà riêng của họ giàu có hơn cả nhà Vua. Riêng Nhương Hầu Ngụy Nhiễm là người có địa vị cao nhất, lại được Thái hậu đỡ đầu, nên trở thành người cầm đầu trong “Tứ quý”, quyền lực không ai sánh bằng, mọi người đều phải nể mặt. Hằng năm, ông ta kéo đại đội binh mã, thay mặt Vua Tần đi du hành khắp cả nước để thị sát quan lại, xem xét thành trì, duyệt qua binh mã, phủ dụ bá tánh, dương oai tác phúc đủ điều. Tuy Tần Chiêu Tương Vương có lòng bất mãn, nhưng vì sợ Thái hậu nên đành phải để ông ta muốn làm gì thì làm.

“Tứ quý” nắm trọn quyền bính và bao giờ cũng bài xích những người không ăn cánh với họ. Tần Chiêu Tương Vương lúc nào cũng ở tận trong nội cung, lại bị các quyền thần quý thích bao vây, nên không thể nắm được tình hình cụ thể ở bên ngoài.

Thời Chiến Quốc là một thời kỳ tình hình luôn xáo trộn, trên vũ đài chính trị những mưu sĩ, những nhà thuyết khách đông đảo, đi khắp nơi để tìm cơ hội tiến thân, vàng thau lẫn lộn, cho nên số người trong tập đoàn thống trị cấp trên của nước Tần, không có ấn tượng tốt đẹp đối với những tân khách, biện sĩ từ các nước chư hầu đến. Họ cho số người này là bất tài, kém học, chỉ biết nói suông chứ không có khả năng gì.

Đến năm 270 tCN, Thừa tướng Nhương Hầu Ngụy Nhiễm muốn xua quân vượt qua nước Hán và nước Ngụy, để đi đánh nước Tề, chiếm lấy hai vùng đất Cương, Thọ, nhằm mở rộng vùng đất phong của mình ở Định Đào. Kết quả của hành động này sẽ củng cố thực lực của Ngụy Nhiễm, khiến gốc càng to mà nhánh càng dày, tạo ra tệ đoan là thần tử còn mạnh hơn cả triều đình.

Phạm Thư cho rằng đây là cơ hội tốt trời ban, có thể chụp lấy để tiếp xúc với Tần Chiêu Vương, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Vua để chen chân vào triều đình Nhà Tần. Phạm Thư mạnh dạn gửi lên Chiêu Vương một bức thư nữa, với mục đích bày tỏ lòng đại nghĩa của mình. Ông nhắm đúng vào những tệ đoan đang tồn tại trong triều đình cũng như nỗi băn khoăn lo lắng của Chiêu Vương để đánh động nhà Vua. Trong bức thư này, Phạm Thư viết:

“  Thần nghe nói khi nào vua sáng trị vì thì người có công được thưởng, người có tài được làm quan; người khó nhọc nhiều được hưởng lộc hậu, người có công nhiều được tước cao, người nào biết cai trị dân chúng thì chức quan lớn. Cho nên nhũng kẻ không có tài không dám giữ chức, những kẻ có tài năng cũng không dám trốn tránh ở ẩn. Nếu nhà Vua cho lời nói của thần là đúng thì xin nhà Vua đem ra thi hành để càng làm sáng tỏ cái đạo ấy. Nếu nhà Vua cho lời nói của thần là không đúng thì giữ thần mãi ở đây cũng không có ích gì.

“  Tục ngữ có câu: ‘Vị vua tầm thường thì thưởng người mình yêu mà phạt người mình ghét. Vị vua sáng thì không thế. Khi thưởng thi nhất định thưởng cho người có công; khi phạt thì nhất định phạt kẻ có tội. Nay bụng của thần không đáng chịu đao kiếm, lưng của thần không đáng chịu búa rìu, thần dám đâu đem những việc không chắc chắn để chịu hình phạt của bệ hạ ? Dù cho thần là người thấp hèn nên bị bệ hạ coi thường làm nhục đi nữa, lẽ nào bệ hạ lại không trọng con người dung nạp thần đã nói đi nói lại với bệ hạ hay sao?

“  Vả chăng, thần nghe nói Nhà Chu có ngọc ‘Chỉ ách, nước Tống có ngọc ‘Kết lục’, nước Sở có ngọc ‘Biện hòa’, nước Lương có ngọc ‘Huyền lê’. Bốn vật quý ấy do đất đai sinh ra, bị người thợ khéo bỏ rơi nhưng vẫn là đồ vật quý giá của thiên hạ; nhưng con người bị vua thánh vứt bỏ, lẽ nào lại không đủ để giúp ích cho nước nhà hay sao ? Thần nghe nói kẻ khéo làm lợi cho nhà thì thu lấy cả cái lợi ở nước , người khéo làm lợi cho nước thì lấy cái lợi ở chư hầu . Thiên hạ có vị vua sáng thì chư hầu không thể chiếm được cái lợi. Tại sao? Vì nhà Vua tước mất cái vinh của họ đem về cho mình. Người thầy thuốc giỏi biết được người bệnh sống hay chết, vị vua thánh thấy rõ việc thành hay bại: có lợi thì làm, có hại thì bỏ, nghi ngờ thì thử một ít xem sao? Tuy vua Vũ, vua Thuấn sống lại cũng không thể thay đổi được cái phép tắc ấy.

“  Lời nói sâu xa thì thần không dám viết vào giấy, lời nói nông cạn thì nhà Vua không cần phải nghe. Phải chăng đó là vì thần ngu không hợp với ý muốn nhà Vua, hay là con người tiến cử thần ở địa vị thấp hèn nên lời nói không đáng dùng? Nếu như không phải như vậy, thì thần xin nhà Vua cho phép có lúc nào rảnh được ngước nhìn nhan sắc, nói một lời không có công hiệu, thần xin chịu tội búa rìu.

Chỗ đáng quý và hiếm có trong bức thư du thuyết của Phạm Thư, là có một tư tưởng chính trị sâu sắc, trực tiếp đề cập đến cách dùng người. Ông chủ trương chọn dùng người hiền tài, tưởng thưởng cho những người có công, phản đối cách dùng người chỉ nhắm vào tông thất. Trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến, từ lâu đã quen dùng bà con giòng họ của mình. Cho nên tư tưởng này quả là một tia sáng lấp lánh.

Kế đó, Phạm Thư nêu bật vấn nạn mà Tần Chiêu Tương Vương không giải quyết nổi: Thái hậu và quyền thần bên nhà ngoại nắm hết quyền bính của quốc gia, và chỉ rõ mối nguy hại của việc triều đình thì suy yếu còn thần tử thì mạnh lên. Đối với việc tăng cường trung ương tập quyền và củng cố địa vị thống trị của nhà Vua, đó là những ý kiến rất sáng suốt nhưng một mình ông không làm được.

Tần Chiêu Tương Vương là vị vua có hoài bão lớn, thế nhưng vấn nạn nêu trên khiến kế hoạch muốn làm cho nước giàu binh mạnh của ông bị cản trở. Đó chính là một nỗi băn khoăn mà ông vẫn để trong lòng từ bấy nhiêu năm qua. Những lời nói trong bức thư của Phạm Thư đánh trúng vào nỗi băn khoăn đó của Tần Chiêu Tương Vương. Hơn nữa, những lời nói bí ẩn, hàm súc viết trong thư làm cho Tần Chiêu Tương Vương càng phải băn khoăn suy nghĩ, muốn được giải đáp ngay. Nhất là trong bức thư Phạm Thư bảo đảm mình là người đủ mưu lược để trị quốc, và có thể giúp cho Tần Chiêu Tương Vương thoát khỏi cảnh lúng túng trước mắt.

Chính vì vậy, Tần Chiêu Tương Vương cả mừng, xin lỗi Vương Kê, sai người lấy xe đưa Phạm Thư vào. Phạm Thư bấy giờ mới được vào yết kiến nhà Vua ở Ly Cung. Phạm Thư giả vờ không biết đó là cung vua, cứ bước vào trong. Tần Chiêu Tương Vương đến, bọn hoạn quan đuổi Thư, nói: “Nhà Vua đến đấy!”

Phạm Thư giả vờ không biết, nói: “Nước Tần làm gì có vua! Nước Tần chỉ có Thái hậu và Nhương Hầu mà thôi.”

Phạm Thư dùng lối nói khích để bắt nhà Vua thấy xấu hổ.

Tần Chiêu Tương Vương đến, nghe lời của Phạm Thư cãi nhau với viên hoạn quan, liền đến đón tiếp, xin lỗi, cung kính theo lễ khách chủ, Phạm Thư nhún nhường. Hôm ấy thấy Phạm Thư yết kiến nhà Vua, tất cả các quan không ai không rùng mình biến sắc mặt, thay đổi thái độ.

Tần Chiêu Tương Vương quỳ xuống, cầu khẩn: “Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân?”

Phạm Thư nói: “Dạ, dạ.”

Một lát sau, vua Tần lại quỳ xuống nói: “Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân?”

Phạm Thư nói: “Dạ, dạ.”

Như thế ba lần. Vua Tần quỳ xuống nói: Thế là tiên sinh cuối cùng vẫn không làm ơn dạy bảo quả nhân sao?”

Thấy Tần Chiêu Tương Vương thiết tha muốn thỉnh giáo, nên thái độ của Phạm Thư rất thành khẩn, uyển chuyển đáp:

“  Thần đâu dám thế. Thần nghe nói ngày xưa khi Lữ Thượng gặp Văn Vương, thì Lữ Thượng chỉ là người câu cá ở bến sông Vị mà thôi. Như thế tức là quen biết sơ. Sau khi nói xong, Văn vương lập Lữ Thượng làm thái sư, chở lên xe cùng về. Đó là vì lời nói của ông ta sâu sắc, cho nên Văn Vương nhờ có Lữ Thượng mà lập được công, cuối cùng làm vua cả thiên hạ. Trước đây giả sử Văn Vương coi Lữ Thượng là người xa lạ, không cùng nói những lời sâu sắc, thì Nhà Chu đã không có cái đức làm thiên tử, và Văn Vương, Vũ Vương không nhờ ai để lập nên nghiệp vương. Ngày nay thần là một người tôi ở trọ, với nhà Vua là kẻ sơ giao, nhưng việc thần muốn trình bày lại là những việc giúp đỡ nhà Vua, đụng chạm đến cốt nhục của người ta, thần muốn đem tấm lòng trung ngu dại của mình để tâu lên nhưng chưa biết lòng vua như thế nào. Vì vậy cho nên nhà Vua hỏi ba lần mà thần vẫn không dám đáp. Không phải thần có điều lo sợ nên không dám nói đâu.

“  Thần biết rằng hôm nay được nói trước mặt nhà Vua, rồi ngày mai sẽ bị chết, nhưng thần cũng không dám từ chối. Nếu đại vương quả thực tin dùng lời nói của thần thì đối với thần, cái chết không phải là điều đáng lo, việc trốn tránh không đáng làm cho thần sợ, việc sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người điên, cũng không đủ làm cho thần xấu hổ. Vả chăng, Ngũ đế là những người thánh mà chết; Tam vương là nhân, người nhân mà chết; Ngũ bá là những người hiền mà chết; O Hoạch, Nhiệm Bỉ là những người khỏe mà chết; Thành Kinh, Mạnh Bôn Vương Khánh Ky, Hạ Dục là những người dũng cảm mà chết.

“  Cái chết là điều người ta không ai tránh khỏi. Gặp cái thế tất nhiên, nếu có làm được điều gì có thể bổ ích cho nước Tần một chút thì đó là điều thần rất mong muốn vậy, thần có sợ gì đâu? Ngũ Tử Tư bị bỏ vào đẫy đem ra khỏi cửa Chiêu Quan, ban đêm đi, ban ngày thì nấp, đến đất Lăng Thủy không có gì nuôi miệng, bèn quỳ bằng đầu gối, bò lết, cúi đầu lạy ở trần, vỗ bụng, thổi sáo, ăn xin ở chợ Ngô, cuối cùng làm cho nước Ngô hưng khởi. Thạp Lư thành bá.

“  Nếu như thần được trình bày tất cả mưu kế của mình như Ngũ Tử Tư, thì dù phải suốt đời không được gặp lại nhà Vua, nhưng cái thuyết của thần được thi hành, thì thần có gì là lo sợ? Cơ Tử, Tiếp Dư sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người điên, nhưng vô ích đối với nhà Vua. Nếu như thần được xếp cùng một hàng với Cơ Tử nhưng lại có điều bổ ích cho vị vua mình cho là người hiền, thì đó thực là một vinh dự lớn của thần. Thần có xấu hổ gì đâu? Điều thần sợ chỉ là sợ rằng sau khi thần chết thiên hạ thấy thần tận trung mà chết, vì vậy cho nên khóa miệng, bó chân không ai dám hướng về nước Tần mà thôi. Bệ hạ ở trên thì sợ Thái hậu nghiêm khắc, ở dưới bị bọn gian thần lừa dối, ngồi ở trong thâm cung chưa hề rời khỏi tay người nâng niu, suốt đời bị mê hoặc, không có ai nêu rõ gian tà. Tai họa này nếu lớn thì tôn miếu bị tiêu diệt, nếu nhỏ thì bản thân mình cô độc hiểm nguy, đó là điều thần sợ. Còn như việc cùng khổ, sỉ nhục, chết chóc thì thần đâu dám sợ. Nếu thần chết mà nước Tần được thịnh trị thì còn hơn là sống.”

Vua Tẩn quỳ xuống nói:

“  Sao tiên sinh nói thế? Nước Tần ở nơi xa xôi hẻo lánh, quả nhân ngu dại, tiên sinh đã hạ cố đến đây, đó là trời kia đưa quả nhân đến làm phiền tiên sinh để bảo tồn tôn miếu của tiên vương vậy. Quả nhân được nghe lời chỉ giáo của tiên sinh, đó là trời thương đến tiên vương mà không vứt bỏ đứa con côi cút. Tiên sinh có việc gì mà nói như vậy? Bất kỳ việc lớn việc nhỏ, trên từ Thái hậu, dưới đèn các quan đại thần, xin tiên sinh chỉ giáo hết cho quả nhân, chứ đừng nghi ngờ quả nhân.”

Phạm Thư lạy mà vua Tần cũng lạy. Phạm Thư nói:

“  Nước của đại vương bốn phía có biên giới vững vàng: phía bắc có Núi Cam Tuyền, Ải Cốc Khẩu, phía nam có dãy Sông Kinh, Sông Vị, bên phải có đất Lũng Tây, đất Thục, bên trái có Ải Hàm Cốc, Núi Hào, quân đội thiện chiến có trăm vạn, xe trận có ngàn cỗ, gặp lợi thì xông ra đánh, bất lợi thì rút vào cố thủ. Đó là đất của bậc vương giả vậy! Dân sợ việc đánh nhau riêng, nhưng dũng cảm trong việc chiến đấu cho nước nhà, đó là dân của bậc vương giả. Nhà Vua nắm được cả hai cái đó [địa lợi và nhân hòa].

“  Còn việc lấy quân đội Tần dũng mãnh, xe ngựa đông đúc để khống chế chư hầu thì dễ như xua chó Lô của nước Hàn [một giống chó khoẻ] đuổi đánh con thỏ què vậy. Cơ nghiệp bá vương có thể làm được nhưng vì các quan không ai xứng chức vị của mình, cho nên đóng cửa ải đến nay đã 15 năm, không dám đem binh lực đánh các nước ở Sơn Đông. Sở dĩ như vậy là vì Nhương Hầu không trung thành với việc mưu lợi ích cho nước Tần và kế của đại vương có chỗ sai lầm vậy.”

Vua Tần quỳ xuống nói: “Quả nhân xin nghe xem kế của quả nhân sai lầm như thế nào?”

Thấy xung quanh có nhiều người nghe trộm, Phạm Thư sợ không dám nói việc trong nhà, chỉ nói việc ngoài trước để dò xem ý của nhà Vua như thế nào. Phạm Thư bèn nói:

“  Nhương Hầu muốn vượt qua nước Hàn, nước Ngụy để đánh đất Cương Thọ của nước Tề, đó không phải là kế hay. Nếu đem ít quân thì không đủ để làm tổn thương nước Tề, đem nhiều quân thì hại đến nước Tần. Theo như ý của thần thì kế của nhà Vua là mình đem ít quân, nhưng lại bắt nước Hàn, nước Ngụy dốc hết binh lực của họ để đánh Tề. Điều đó thật vô lý. Nay nếu ta đã thấy nước theo mình không thân với mình mà lại vượt qua nước người ta để đánh nước khác, thì hỏi có được hay không? Mưu kế như vậy là sơ hở đấy.

“  Vả chăng, ngày xưa vua Dẫn Vương nước Tề, phía nam đánh Sở, phá quân diệt tướng, hai lần mở mang đất đai ngàn dặm, nhưng rốt cuộc nước Tề vẫn không lấy được một tấc đất nào. Điều đó đâu phải là vì vua Tề không muốn lấy đất, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép làm như vậy. Chư hầu thấy nước Tề mỏi mệt, vua tôi không hòa, đem quân đánh tan quân Tề. Tướng sĩ bị nhục, binh lính bị khốn đốn, đều đổ lỗi cho nhà Vua, hỏi: ‘Ai bày ra kế này đây?’ Nhà Vua nói: ‘Văn Tử đấy’. Đại thần làm loạn, Văn Tử chạy ra nước ngoài. Cho nên nước Tề sở dĩ thua to là vì nó đánh Sở, làm cho nước Hàn, nước Ngụy được béo. Cách đó gọi là trao binh khí cho giặc, đem lương thực cho kẻ cướp vậy.

“  Chi bằng nhà Vua cứ giao hiếu với nước ở xa và đánh nước ở gần; được tấc đất nào là tấc đất của nhà Vua, được thước đất nào là thước đất của nhà Vua. Nay nhà Vua lại bỏ kế đó mà đánh nước ở xa, thế chẳng phải là sai hay sao? Đấy, xưa kia nước Trung Sơn đất vuông năm trăm dặm mà bị một mình nước Triệu nuốt hết. Nước Triệu công thành danh toại, lại được thêm cái lợi nữa, thế mà thiên hạ không ai làm hại được nó.

“  Nay các nước Hàn, Ngụy là những nước ở giữa, là nơi then chốt của thiên hạ. Nếu nhà Vua muốn làm nghiệp bá thì thế nào cũng phải hòa thân với các nước ở giữa làm nơi then chốt cho thiên hạ để uy hiếp nước Sở, nước Triệu. Nếu nước Sở mạnh thì ta bênh vực nước Triệu; nước Triệu mạnh thì ta bênh vực nước Sở. Cả hai nước Triệu, Sở cùng theo ta thì thế nào nước Tề cũng hoảng sợ. Nước Tề hoảng sợ thì thế nào cũng dùng lời lẽ khiêm tốn, đem nhiều của cải đến để thờ nước Tần. Một khi nước Tề đã theo ta thì có thể cầm tù được nước Hàn, nước Ngụy.”

Then chốt của sách lược Phạm Thư là viễn giao cận công (giao hảo gần tấn công xa), lấy Hàn, Ngụy ở gần mà giao hiếu với Tề ở xa. Nhưng muốn lấy Hàn, Ngụy thì trước hết phải cô lập họ, cho nên đầu tiên phải giao hiếu với họ để họ thoát ly ảnh hưởng của các nước lớn Tề, Sở, Triệu. Sau đó phải làm sao cho Sở, Triệu phục tùng theo mình không can thiệp vào việc đánh Hàn, Ngụy. Muốn vậy thì xui hai nước đánh nhau, giúp nước yếu đánh nước mạnh, làm cả hai nước đều kiệt quệ mà phải thần phục mình. Một khi Hàn, Ngụy, Triệu, Sở đã thuần phục rồi thì nước Tề lúc bấy giờ tự mình ở vào thế cô, nên thế nào cũng phải giao hiếu với Tần khi ấy. Giao hiếu với các nước xa xôi rồi thì việc lấy Hàn, Ngụy dễ như trở bàn tay.

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Ta muốn thân với nước Ngụy đã lâu, nhưng nước Ngụy là nước hay thay đổi luôn, quả nhân không thể hòa thân được, xin cho biết làm thế nào để hòa thân với Ngụy.”

Phạm Thư đáp: “Nhà Vua dùng lời lẽ nhún nhường, đem nhiều của cải đến để phụng sự họ; nếu không được thì cắt đất mình mà đút lót cho họ nếu làm thế cũng không được thì phải đem binh mà đánh.”

Nhà Vua nói: “Quả nhân xin vâng theo lời chỉ giáo.”

Bèn cho Phạm Thư làm Khách khanh (chức quan ở trên cấp đại phu) lo việc binh. Sau đó nhà Vua nghe theo mưu kế của Phạm Thư, sai ngũ đại phu và Uyển đánh Ngụy, lấy đất Hoài, hai năm sau đánh lấy đất Hình Khâu.

Khách khanh Phạm Thư lại nói với Tần Chiêu Tương Vương: “Địa hình của nước Tần và nước Ngụy cài vào nhau như bức gấm thêu. Nước Tần có nước Hàn cũng như cây gỗ có mọt, như con người có bệnh ở trong tim trong ruột vậy. Trong thiên hạ không có biến thì thôi, chứ đã có biến thì chẳng nước nào làm cho Tần phải lo sợ bằng nước Hàn đâu! Nhà Vua thu phục Hàn là hơn cả.”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Ta từ lâu đã muốn thu phục nước Hàn, nhưng nước Hàn không nghe, vậy phải làm thế nào?”

Phạm Thư đáp: “Nước Hàn không nghe sao được? Nhà Vua đem binh xuống đánh Huỳnh Dương thì con đường giao thông của đất Củng và đất Thành Cao bị tắt. Sau đó, quay về phía bắc chặn đường Thái Hàng thì quân ở Thượng Đảng [ở phía bắc đất Hàn] không xuống được. Một khi nhà Vua đem binh đánh Huỳnh Dương thì nước Hàn sẽ bị chia cắt thành ba khúc, nước Hàn thấy mình thế nào cũng mất, không nghe theo sao được? Nếu như nước Hàn nghe theo thì có thể lo đến cơ nghiệp bá.”

Tần Chiêu Tương Vương gật đầu cho là phải, đồng ý với phương án của Phạm Thư. Từ đó trở đi, Tần liên tiếp mở những cuộc tấn công có tính cách hủy diệt.

Năm 265 tCN, quân Tần tấn công và chiếm lĩnh Thiếu Khúc (nay là vùng Đông Bắc Tế Nguyên của tỉnh Hà Nam) của nước Hàn, và Cao Bình (nay là vùng đất nằm về phía Nam của Tế Nguyên).

Năm 264 tCN, Đại tướng Bạch Khởi của Tần đánh chiếm Hình Thành (nay là vùng Đông Bắc Khúc Ốc thuộc tỉnh Sơn Tây).

Năm 263 tCN, Bạch Khởi tấn công và chiếm được Nam Dương nằm ở phía Nam Thái Hành Sơn của nước Hàn. Năm sau lại đánh chiếm Dã Vương (nay là Tẩm Dương thuộc tỉnh Hà Nam).

Đến đây, nước Tần cắt nước Hàn ra làm ba đoạn, khiến vùng Thượng Đảng hoàn toàn bị cô lập, chỉ còn chờ chết.

Trái lại, qua những cuộc chiến tranh đối với Ngụy, Hàn, nước Tần thu được nhiều nhân lực, vật lực để bổ sung cho mình, khiến thực lực của nước Tần vươn lên nhanh chóng. Các nước chư hầu đều đều run rẩy. Tiếp đó, Tần đẩy nhanh hoạt động cửa mình về phía đông, mở rộng quy mô chiến tranh đối với hai nước Triệu và Sở.

Phạm Thư ngày càng thân với Tần Chiêu Tương Vương, được nhà Vua tin dùng trong mấy năm. Phạm Thư bèn nói riêng với nhà Vua:

“  Khi thần ở Sơn Đông, thần nghe ở nước Tề có Điền Văn chứ không có vua Tề, nghe Tần có Thái hậu, có Nhương Hầu, Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương chứ không nghe nói có vua. Phàm có nắm được toàn quyền trong nước mới gọi là vua, có nắm được quyền sinh sát mới gọi là vua. Nay Thái hậu tự tiện chuyên quyền không đếm xỉa đến nhà Vua, Nhương Hầu cho sứ ra đi không báo với nhà Vua, Hoa Dương, Kinh Dương xét xử người ta không nể nang ai hết, Cao Lăng muốn làm hay muốn thôi, không cần hỏi nhà Vua. Nước có bốn hạng người cao quý ấy mà không nguy thì xưa nay chưa hề có vậy. Nếu người ta theo bốn hạng người quý ấy thì có thể gọi không có nhà Vua. Như thế thì uy quyền làm sao cho khỏi bị phá hoại, nhà Vua làm sao còn có thể ban hành mệnh lệnh được nữa?

“  Thần nghe nói vua giỏi trị nước thì ở trong nước nắm chắc lấy cái uy thế của mình, ở ngoài nước coi trọng cái quyền lực của mình. Sứ giả của Nhương Hầu nắm lấy quyền lực của nhà Vua, uy hiếp chư hầu, chặt phù với thiên hạ, đem quân đánh nước người, ai cũng phải nghe theo. Nếu Nhương Hầu đánh thắng, lấy được đất thì cái lợi lại quay về đất Đào, còn chư hầu thì chịu thiệt hại; nếu Nhương Hầu đánh thua thì nhà Vua kết oán với trăm họ, mà nước nhà lại phải chịu tai họa.

“  Thơ có câu: ‘Cây mà nhiều quả thì làm gãy cành, cành bị gãy thì hại đến gốc. Làm đổ thành lớn thì nguy cho nước, đề cao bầy tôi thì hạ thấp vua’. Thôi Trữ, Trác Xỉ cai trị nước Tề, bắn vào đùi vua, rút gân vua, treo vua lên xà ở miếu, một ngày sau thì chết. Lý Đoái cai trị nước Triệu, giam Chủ Phụ [tức Vũ Linh Vương nước Triệu] ở Sa Khâu được một trăm ngày thì Chủ Phụ chết đói.

“  Nay thần nghe nói Thái hậu, Nhương Hầu chuyên quyền, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương giúp cho họ, như thế kết quả là sẽ không còn Vua Tần nữa, đó cũng là cái loại Trác Xỉ, Lý Đoái vậy. Vả chăng, đời Tam Đại [ba triều đại Hạ, Thương, Chu], sở dĩ nước mất là vì vua cứ giao việc nước cho bầy tôi, tha hồ uống rượu, săn bắn, không lo việc chính sự. Những kẻ mà vua trao quyền binh là những kẻ ghen người hiền, ghét người có tài, đàn áp kẻ dưới, che mắt người trên để làm việc riêng của mình. Họ không lo đến việc vua, nhưng vua không tỉnh ngộ, vì vậy cho nên mất nước.

“  Nay từ người quan nhỏ nhất trở lên cho đến những vị quan lớn, thậm chí cả những người hầu hạ xung quanh nhà Vua, không ai không phải là người của Thừa tướng Nhương Hầu. Thần thấy nhà Vua đứng một mình ở triều, thần trộm lo cho nhà Vua, vạn thế sau này người làm vua nước Tần, sẽ không phải là con cháu nhà Vua nữa.”

Tần Chiêu Tương Vương nghe vậy, hoảng sợ, nói: “Phải đấy.”

Bèn phế truất người họ ngoại gồm Tuyên Thái hậu (mẹ đẻ nhà Vua), Nhương Hầu Ngụy Nhiễm (cậu ruột nhà Vua), Kinh Dương Quân và Cao Lăng Quân (hai em cùng mẹ). Vua Tần thu ấn của Nhương Hầu, sai Nhương Hầu trở về đất Đào, nhân đó sai các quan cấp cho xe bò để chuyên chở đồ đạc. Đồ đạc chở hơn một ngàn cỗ xe. Khi đến cửa ải, người giữ cửa ải xét đồ đạc thì thấy của cải quý báu nhiều hơn trong cung vua.

Rồi Tần Chiêu Tương Vương phong Phạm Thư làm Thừa tướng và phong tước là Ứng Hầu, ban cho đất Ứng. Bấy giờ là năm 265 tCN.

Phạm Thư báo ân, báo oán

Sau khi Phạm Thư làm Thừa tướng nước Tần, nước Tần gọi ông ta là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết, cho là Phạm Thư chết đã lâu. Ngụy Vương biết tin Vua Tần mới dùng Trương Lộc làm Thừa tướng, nay muốn cử binh phạt Ngụy, nên cấp tốc triệu tập quân thần để bàn bạc cách đối phó.

Tín Lăng Quân Vô Kỵ nói: “Binh Tần đã nhiều năm không xâm phạm biên cảnh của nước Ngụy, nay vô cớ lại cử binh tiến đánh, rõ ràng xem khinh ta không thể chống cự nổi với họ. Nếu vậy, ta nên đắp thành cao, đào hào sâu, dàn trận chờ đợi họ đến.”

Tướng quốc Ngụy Tề nói: “Không thể được. Tần mạnh, Ngụy yếu, nếu đánh chắc chắn sẽ bị bại trận. Nghe đâu Trương Lộc Thừa tướng của nước Tần vốn là người Ngụy, vậy chả lẽ ông ấy không nghĩ đến một chút tình cố hương hay sao? Nếu ta sai người mang vàng bạc châu báu, sang đút lót cho Thừa tướng Trương Lộc trước, rồi sau đó vào bái kiến Tần Vương, chịu nạp con tin, triều cống của cải gấm vóc rồi xin cầu hòa, thì hy vọng bảo toàn được cho nước Ngụy.”

Lúc bấy giờ Ngụy Chiêu Vương đã chết, con là Tử An Ly Vương mới lên nối ngôi, chưa quen trận mạc, sợ chiến tranh, nên dùng kế sách của Ngụy Tề, sai Trung Đại phu Tu Giả đi sứ nước Tần.

Tu Giả phụng mệnh nhà Vua chở đầy vàng bạc châu báu nhắm kinh đô Hàm Dương xuất phát.

Phạm Thư nghe vậy cải trang, mặc áo quần lam lũ, đi bộ lẻn đến nhà khách, yết kiến Tu Giả. Tu Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi: “Phạm Thúc vẫn không can gì sao?”

Phạm Thư đáp: “Phải.”

Tu Giả cười nói: “Phạm Thúc đến làm thuyết khách ở nước Tần phải không?”

“Thưa không ạ. Trước đấy, Thư có tội với Tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách.”

“Nay ông Thúc làm việc gì?”

Phạm Thư nói: “Tôi làm thuê cho người ta.”

Tu Giả trong bụng thương hại, giữ lại cùng ngồi ăn cơm, nói: “Phạm Thúc nghèo khổ đến thế sao?”

Bèn lấy một cái áo bào thêu cho Phạm Thư. Nhân đấy, Tu Giả hỏi: “Anh có biết Thừa tướng nước Tần là Trương Quân không? Tôi nghe nói ông ta được nhà vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do Thừa tướng quyết định. Công việc của tôi bây giờ thành công hay thất bại đều tùy ở Trương Quân cả. Này anh, anh có ai bạn bè quen biết Thừa tướng không?”

Phạm Thư nói: “Ông chủ của tôi quen biết ông ta, nên tôi cũng có thể vào bái yết. Thư này xin giúp ông để cho ông yết kiến Trương Quân.”

Tu Giả nói: “Con ngựa của ta mắc bệnh, trục xe gãy, không có xe tứ mã lớn, nên ta không đi ra đâu.”

Phạm Thư nói: “Tôi sẽ nói ông chủ của tôi mượn cho ông xe tứ mã lớn.”

Phạm Thư về lấy xe tứ mã và đích thân đánh xe cho Tu Giả vào phủ Thừa tướng nước Tần. Người trong phủ nhận ra Phạm Thư, ai nấy đều ẩn nấp trốn tránh. Tu Giả lấy làm lạ.

Khi đến cửa nhà Thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả: “Ông hãy đợi tôi một lát, tôi xin vào trước để báo với Thừa tướng.”

Tu Giả đợi ở ngoài cửa, dừng xe hồi lâu, hỏi người môn hạ: “Ông Phạm Thúc không ra là tại làm sao?”

Người môn hạ nói: “Không có ai là Phạm Thúc cả.”

Tu Giả nói: “Lúc nãy ông ta cùng tôi đi vào đấy mà.”

“Đó là Thừa tướng của chúng tôi đấy.”

Tu Giả cả kinh biết rằng mình bị lừa, bèn cởi trần đi bằng đầu gối rồi nhờ người môn hạ vào xin tha tội. Bấy giờ Phạm Thư bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông để tiếp kiến.

Tu Giả cúi đầu nói: “Tội tôi đáng chết, Giả tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên đến tận mây xanh. Từ nay Giả không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có cái tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, ngài cho sống thì được sống, ngài bắt chết thì xin chịu chết.”

Qua lời nói này ta thấy rõ uy lực của Tần đôi với chư hầu lúc bấy giờ như thế nào.

Phạm Thư nói: “Nhà ngươi có mấy tội?”

“Nhổ hết tóc của Giả để tính tội của Giả vẫn chưa đủ.”

Phạm Thư nói: “Nhà ngươi chỉ có ba tội mà thôi. Trước đây thời Sở Chiêu vương, Thân Bao Tư vì nước Sở mà đuổi quân Ngô, vua Sở phong cho ông ta đất Kinh năm nghìn hộ, Bao Tư từ chối không nhận vì mồ mả của ông cha đều ở đất Kinh. Nay mồ mả cha ông của Thư này cũng đều ở đất Ngụy, nhà ngươi trước đây cho rằng Thư này có ngoại tâm đối với Tề, gièm pha Thư với Ngụy Tề, đó là một tội. Lúc Ngụy Tề làm nhục ta ở trong nhà xí, nhà ngươi không ngăn cản, đó là hai tội. Đến khi uống rượu say lại đái vào ta, sao mà nhà ngươi nhẫn tâm đến thế! Đó là ba tội. Nhưng sở dĩ nhà ngươi được khỏi chết, là vì còn thương hại ta, tặng cái áo bào, tức là còn có tình nghĩa với người cũ, cho nên ta tha cho nhà ngươi.”

Phạm Thư bèn tha tội và đuổi Tu Giả ra.

Ngày hôm sau, Phạm Thư vào bái kiến Tần Chiêu Tương Vương, nói: “Nước Ngụy sợ hãi, nên sai sứ là Tu Giả sang cầu hòa, để tránh động can qua. Đấy là do uy phúc của Đại vương cả.”

Tần Chiêu Tương Vương nghe qua hết sức vui mừng. Phạm Thư tâu thêm: “Thần có một tội khi quân, xin Đại vương tha thứ thần mới dám nói thật.”

Tần Chiêu Tương Vương hỏi: “Khanh có tội khi quân gì? Vậy cứ nói ra, quả nhân không bắt tội đâu.”

Phạm Thư kể chuyện ngày xưa từ lúc mình là Phạm Thư, người nước Ngụy, thuở bé mồ côi, v.v đến khi bỏ trốn sang Tần.

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Quả nhân không biết khanh lại chịu hàm oan đến thế. Nay Tu Giả đến đây, có thể chém đầu hắn để hả cơn giận cho khanh.”

Phạm Thư đáp: “Tu Giả đến đây là vì chuyện chung giữa hai nước. Tự cổ, hai nước đã đánh nhau cũng không bao giờ chém sứ, huống hồ chi hiện nay ông ta đến đây để cầu hòa, như vậy thần nào dám lấy chuyện riêng để làm tổn hại tới chuyện công. Hơn nữa, kẻ nhẫn tâm giết thần chính là Ngụy Tề, không liên quan gì tới Tu Giả cả.”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Khanh biết đặt chuyện công lên trên chuyện tư, có thể nói đấy là người đại trung rồi. Mối thù đối với Ngụy Tề, quả nhân nhất định sẽ trả giúp cho khanh. Riêng sứ giả của nước Ngụy tới đây thì tùy nghi khanh giải quyết.”

Phạm Thư tạ ân lui ra. Tần Vương chấp nhận cho nước Ngụy được cầu hòa.

Sau mấy hôm, Tu Giả đến tạ từ Phạm Thư. Phạm Thư mở tiệc lớn, mời tất cả sứ thần các nước chư hầu ngồi trên nhà ăn uống rất sang, rất hậu. Trái lại, Tu Giả phải ngồi ở dưới thềm. Phạm Thư sai đặt một cái máng cho ngựa ăn trước mặt, sai hai người tội nhân bị chạm vào mặt, cho y ăn như người ta cho ngựa ăn vậy.

Phạm Thư mắng: “Nhà ngươi nói với vua Ngụy hộ ta rằng khá mau mau xách đầu Ngụy Tề đến đây! Nếu không, ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương.”

Tu Giả dập đầu tạ ơn liên tiếp. Phạm Thư giũ tay áo đuổi hắn đi. Tu Giả vội vàng đi bằng hai đầu gối để trở ra ngoài. Kể từ đó, trong triều đình cũng như ngoài dân gian mới biết Thừa tướng Trương Lộc chính là Phạm Thư, người nước Ngụy.

Tu Giả sau khi được Tần Chiêu Tương Vương bằng lòng cho nghị hòa, ngay đêm đó nhanh chóng trở về Đại Lương, đem những lời nói của Phạm Thư dặn dò, tâu lại cho Ngụy Vương nghe. Việc đưa cả gia quyến của Phạm Thư sang Tần là việc nhỏ, nhưng việc chém đầu Tướng quốc đưa sang Tần là việc làm tổn thương đến thể diện của đất nước. Do vậy, Tu Giả ấp úng thật lâu mới dám nói ra. Ngụy Vương nghe qua, đắn đo suy nghĩ. Riêng Ngụy Tề được tin này, vội vàng vứt bỏ quả ấn Tướng quốc, ngay trong đêm bỏ trốn sang nước Triệu, đến tá túc tại nhà của Bình Nguyên Quân Triệu Thắng.

Sau đó, Ngụy Vương dùng xe sang trọng, chở theo vàng ròng hai trăm lạng, gấm vóc hằng nghìn xấp đưa gia quyến của Phạm Thư cùng đến Hàm Dương. Sứ giả nói rõ việc Ngụy Tề nghe tin đã bỏ trốn, nay tá túc tại phủ riêng của Bình Nguyên Quân, không can hệ chi đến nước Ngụy.

Sau khi Phạm Thư đã làm thừa tướng. Vương Kê nói với Phạm Thư: “Có ba việc không thể biết, có ba việc không biết làm thế nào. Xe cung một sớm ra muộn [ý nói một ngày kia nhà Vua chết], đó là điều thứ nhất không thể biết. Ngài bỗng nhiên bỏ quán xá đi [ý nói Phạm Thư chết] là điều thứ hai không thể biết, tôi bỗng nhiên bị vất ra ngoài ngòi rãnh [ý nói tôi chết], đó là điều thứ ba không thể biết. Nếu xe vua một sớm ra muộn thì ngài tuy giận tôi vẫn không biết làm thế nào. Nếu ngài đột nhiên rời khỏi quán xá, thì ngài tuy giận tôi vẫn không biết làm thế nào. Nếu tôi đột nhiên bị ném ra ngoài ngòi rãnh thì ngài tuy có giận tôi vẫn không biết làm thế nào.”

Phạm Thư không vui, vào nói với nhà Vua: “Nếu không có Vương Kê trung thành thì không ai có thể đưa thần vào cửa ải Hàm Cốc, nếu nhà Vua không phải bậc hiền thánh thì không có ai có thể làm cho thần được vinh hiển. Nay thần làm quan đến Thừa tướng, tước đến bậc hầu, mà Vương Kê chỉ đến chức yết giả, đó không phải là ý của ông ta khi đưa thần vào cửa ải.”

Chiêu vương gọi Vương Kê đến, cho làm Thái thú Hà Đông, ba năm không báo lên nhà Vua về việc cai trị ở đấy, trong khi theo lệ của Tần, thái thú sau một năm phải báo cáo về tình hình cai trị ở quận một lẩn.

Phạm Thư lại tiến cử Trịnh An Bình. Chiêu vương cho Trịnh An Bình làm tướng quân. Phạm Thư bèn phân tán tài sản trong nhà đem tất cả ra báo ơn những người đã giúp mình trong cảnh khốn khổ. Người mình chịu ơn một bữa ăn cũng báo; người ta trợn mắt với mình một cái cũng trả thù.

Truy sát Ngụy Tề

Phạm Thư đem việc Ngụy Tề bỏ trốn sang Triệu tâu lên cho Tần Chiêu Tương Vương biết. Nhà Vua nói: “Triệu và Tần bấy lâu nay kết giao thân mật. Tại cuộc họp ở Mãnh Trì đã kết nghĩa làm anh em, lại đưa vương tôn là Dị Nhân sang làm con tin ở Triệu, để củng cố tình giao hảo giữa hai nước. Trước đãy, Tần cử binh đánh Hàn, vây Hàn tại Yên Dữ, Triệu phái tướng Lý Mục sang cứu Hàn, đánh bại quân Tần, quả nhân còn chưa hỏi tội, thế mà nay lại dám chứa kẻ thù của Thừa tướng. Kẻ thù của Thừa tướng tức là kẻ thù của quả nhân, vậy quả nhân nhất định sẽ cử binh phạt Triệu, một là để rửa hận bị bại binh tại Yên Dữ, hai là để đòi Ngụy Tề.”

Tần Chiêu Tương Vương bèn xuống lệnh cử Vương Tiễn làm đại tướng, chỉ huy hai mươi vạn binh mã kéo đi phạt Triệu, và liên tiếp chiếm được ba thành.

Triệu Vương nghe tin binh Tần tiến sâu vào đất mình, rất lo sợ. Lúc bấy giờ Lạn Tương Như bị bệnh nên đã cáo lão về hưu. Ngu Khanh được cử thay làm Tướng quốc, bèn phái Đại tướng Liêm Pha dẫn binh chống giặc, đôi bên giằng co không ai thắng ai.

Ngu Khanh bèn nói với Huệ Văn Thái hậu: “Sự tình rất khẩn cấp, vậy thần xin Trường An Quân đi sang làm con tin ở Tề, để xin Tề ra quân cứu Triệu.”

Huệ Văn Thái hậu bằng lòng. Thế là nước Triệu đưa Trường An Quân – là con nhỏ của Huệ Văn Thái hậu – sang làm con tin tại nước Tề. Tề liền cử Điền Đơn làm Đại tướng, chỉ huy mười vạn quân đi cứu Triệu.

Được tin Tề cử binh cứu Triệu, tướng Tần là Vương Tiễn bèn tâu lên Tần Chiêu Tương Vương: “Nước Triệu có rất nhiều tướng giỏi, lại có người hiền tài như Bình Nguyên Quân, không dễ chi đánh bại họ. Nay viện binh của Tề đã sắp tới nơi, vậy chi bằng rút quân về nước chờ có cơ hội sẽ tính sau.”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Không bắt được Ngụy Tề, quả nhân làm sao ăn nói với Ứng Hầu đây?”

Tần Chiêu Tương Vương bèn sai sứ sang gặp Bình Nguyên Quân, nói: “Nước Tần cử binh phạt Triệu lần này, không có nguyên nhân chi khác, mà chỉ muốn đòi nước Triệu phải giao trả Ngụy Tề mà thôi. Nếu bằng lòng đưa Ngụy Tề ra, thì nước Tần sẽ lui quân tức khắc.”

Bình Nguyên Quân nói với sứ giả: “Ngụy Tề hoàn toàn không có ở tại nhà tôi, xin nói lại với Tần Vương đừng nghe lời đồn đại không đáng tin.”

Sứ giả đi lại ba lần, nhưng Bình Nguyên Quân vẫn một mực không nhận nuôi giấu Ngụy Tề. Tần Chiêu Tương Vương không có cách nào, trong lòng cảm thấy kém vui, muốn tiếp tục đánh Triệu nhưng lại sợ Tề và Triệu liên hợp chống trả, thắng bại không biết ra sao. Nhà Vua cũng muốn rút quân trở về, nhưng vì chưa bắt được Ngụy Tề nên cảm thấy mất mặt. Trong cơn bối rối, nhà Vua bỗng nẩy ra một ý, bèn viết thư tạ lỗi với Vua Triệu, đại khái nói: “Quả nhân và ngài là anh em, quả nhân đã nghe lầm tin đồn đại, Ngụy Tề đang trốn trong nhà Bình Nguyên Quân, nên mới hưng binh để đòi giao ông ta lại cho nước Tần. Nếu không phải vậy, quả nhân há dám tùy tiện xâm phạm biên cảnh của Triệu? Nay quả nhân bằng lòng trả lại ba thành đã chiếm của Triệu để giữ tình giao hảo như xưa, đôi bên qua lại như bình thường”.

Vua Triệu cũng phái sứ mang thư trả lời, cảm tạ việc Tần rút quân và trả lại thành trì đã chiếm. Điền Đan nghe tin quân Tần đã lui, cũng rút quân trở về nước Tề.

Khi Tần Vương về đến Hàm Cốc Quan, lại sai người đưa thư đến cho Bình Nguyên Quân Triệu Thắng. Bình Nguyên Quân xé thơ ra xem, thấy viết: “Quả nhân được biết ngài là người có khí tiết trong sạch, cao quý, nên muốn cùng ngài kết bạn áo vải. Nếu ngài tin ở quả nhân, thì quả nhân bằng lòng cùng uống rượu với ngài suốt mười hôm, cho say mèm mới thôi”.

Bình Nguyên Quân sau khi được thư, liền cầm bức thư vào ra mắt Triệu Vương. Triệu Vương cũng không biết phải làm thế nào để cho thích hợp, bèn triệu tập quần thần bàn qua kế hoạch đối phó. Tướng Quốc Ngu Khanh nói: “Tần là một nước dữ như cọp, như sài lang. Trước kia Mạnh Thường Quân vào nước Tần suýt nữa không trở về được, huống chỉ bây giờ Tần Vương đang nghi Ngụy Tề trốn ở nước Triệu, vậy Bình Nguyên Quân đi vào Tần chắc chắn sẽ gặp rủi nhiều may ít, không thể đi được.”

Liêm Pha nói: “Trước kia Lận Tương Như mang viên ngọc bích Hòa Thị đơn thân độc mã đi vào nước Tần, thế mà vẫn đem được viên ngọc trở về nước Triệu. Tần không dối gạt nước Triệu. Nếu không đi, thì sẽ bị Tần nghi ngờ thêm.

Triệu Vương nói: “Quả nhân cũng thấy đó là ý tốt của Tần Vương, vậy không thể làm trái.”

Nhà Vua bèn sai Triệu Thắng đi cùng sứ thần đến Hàm Dương. Tần Chiêu Tương Vương vừa trông thấy Triệu Thắng thì tỏ ra rất vui mừng, ngày ngày bày tiệc cùng uống rượu với ông ta. Sau mấy hôm, Tần Vương nhân lúc uống rượu cao hứng, đưa cao ly rượu lên nói với Triệu Thắng: “Quả nhân có một việc muốn nhờ ngài giúp cho, nếu ngài hứa thì xin uống cạn ly rượu này.”

Bình Nguyên Quân đáp: “Nếu Đại vương có lệnh, Thắng này nào dám không nghe.”

Dứt lời, Triệu Thắng uống một hơi cạn ly rượu. Tần Vương bèn nói tiếp: “Xưa kia Châu Văn Vương vừa được Khương Thượng liền phong làm Thái Công. Tề Hoàn Công được Quản Trọng liền phong làm Trọng Phụ. Nay Phạm Quân cũng là Thái Công, Trọng Phụ của trẩm. Phạm Quân có một người thù là Ngụy Tề, hiện đang ở trong nhà ngài, vậy ngài có thể sai người về lấy đầu ông ta, để rửa mối thù cho Phạm Quân, thì quả nhân sẽ hết sức vui mừng, nhất định sẽ ban cho ngài nhiều tiền tài, bảo vật.”

Bình Nguyên Quân đáp: “Thần nghe nói: ‘Sau khi phú quý mà vẫn còn giữ được tình bạn, là do giữa họ có mối tương giao trong hoạn nạn với nhau’. Ngụy Tề là bạn của thần, cho dù thật sự ông ta đang ở trong nhà thần đi nữa, thần cũng không nỡ bán đứng ông ta, huống hồ chi hiện giờ ông ta hoàn toàn không có ở trong nhà thần.”

Tần Vương thay đổi sắc mặt, nói: “Nếu ngài không trao Ngụy Tề ra, thì quả nhân sẽ không cho ngài được ra khỏi quan ải!”

Bình Nguyên Quân đáp: “ Việc cho ra khỏi quan ải hay không đó là quyền của Đại vương. Đại vương cho gọi thần đến bảo là để cùng uống rượu, thế mà lại dùng uy quyền để bắt ép thần, chả lẽ không sợ thiên hạ chê cười hay sao?”

Tần Chiêu Tương Vương biết Bình Nguyên Quân không chịu trao Ngụy Tề ra, nên vẫn giữ ở lại Hàm Dương, và giam lỏng tại dịch quán. Đồng thời, nhà Vua sai người mang thư cho Vua Triệu, đại khái nói: “Em trai của nhà Vua là Bình Nguyên Quân đang ở tại nước Tần. Phạm Quân có kẻ thù là Ngụy Tề hiện đang trốn tại nhà Bình Nguyên Quân. Vậy, nếu sáng sớm ngày nay đưa đầu của Ngụy Tề sang Tần, thì chiều lại Bình Nguyên Quân sẽ trở về Triệu Quốc. Bằng không, quả nhân sẽ cử binh tiến sang nước Triệu, đích thân đòi cho được Ngụy Tề, và cũng không cho Bình Nguyên Quân ra khỏi quan ải. Vậy xin nhà Vua nên cân nhắc kỹ lưỡng, rồi hồi âm nhanh chóng”.

Triệu Vương xem thư xong vô cùng sợ hãi, bèn cho tập hợp quần thần lại, nói: “Có lý nào quả nhân bảo vệ cho một đại thần đang bỏ trốn của nước khác, để đánh đổi một vị ‘Trấn công tử’ [tức công tử Trấn Quốc] của quả nhân?”

Dứt lời, Triệu Vương phát binh đi bao vây phủ riêng của Bình Nguyên Quân, lục soát để tìm Ngụy Tề.

Các tân khách ở trong nhà của Bình Nguyên Quân có mối giao hảo tốt với Ngụy Tề, nên khi nghe tin, họ bèn để cho Ngụy Tề giữa đêm bỏ trốn, đến phủ riêng của Tướng quốc Ngu Khanh tạm trú. Ngu Khanh bèn nói với Ngụy Tề: “Triệu Vương sợ Tần chẳng khác chi sợ cọp, không thể dùng lời nói để làm thay đổi ý định của nhà Vua được. Vậy chi bằng hãy đến Đại Lương để nương nhờ Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân là người luôn chiêu hiền đãi sĩ. Những người bỏ trốn một tai họa gì đó khắp trong thiên hạ, thường đến nương nhờ, và được Bình Nguyên hậu đãi, che chở. Nhưng tất nhiên ngài không thể bỏ trốn một mình, mà tôi sẽ cùng đi với ngài.”

Nói dứt lời, Ngu Khanh bèn cởi chiếc ấn đeo trong mình ra, viết thư tạ lỗi với Triệu Vương, rồi cùng Ngụy Tề lén ra ngoại ô. Ngu Khanh an ủi Ngụy Tề: “Tín Lăng Quân là người đại trượng phu, hào phóng, chúng ta đến đó nương nhờ chắc chắn sẽ được nghênh đón ngay, tuyệt đối không bao giờ để cho chúng ta chờ đợi lâu cả.”

Ngu Khanh đi bộ đến trước cửa phủ Tín Lăng Quân, nhờ người vào trong thông báo. Tín Lăng Quân thấy khách đến là Thừa tướng của nước Triệu, hết sức kinh ngạc, vội vàng mời vào phủ bày tiệc tẩy trần. Đồng thời, hỏi Ngu Khanh đến Ngụy là có chuyện chi. Ngu Khanh đang nôn nóng, nên kể đại lược chuyện Ngụy Tề đắc tội với nước Tần và chính mình đã bỏ ấn Thừa tướng để đưa ông ta tới đây cho Tín Lăng Quân nghe.

Nghe xong, vì sợ nước Tần, nên Tín Lăng Quân có vẻ khó xử. Ông không muốn để cho Ngụy Tề được vào phủ riêng của mình, nhưng lại thấy Ngu Khanh đã từ nghìn dặm tìm tới đây, thật không tiện từ chối. Vì thế mà Tín Lăng Quân tỏ ra do dự, chưa quyết định dứt khoát.

Ngu Khanh nhìn thấy sắc mặt của Tín Lăng Quân có vẻ khó xử, không muốn tiếp nhận mình, nên cả giận bỏ đi. Tín Lăng Quân hỏi các xá nhân trong phủ: “Ngu Khanh là người như thế nào?”

Lúc bấy giờ Hầu Doanh ở bên cạnh trả lời: “Con người ta thật là không dễ biết hết, biết người cũng không phải dễ. Ngu Khanh đi giầy rơm, mang dù yết kiến Vua Triệu, lần thứ nhất được thưởng một đôi bạch bích, một trăm cân vàng, yết kiến lần thứ hai được phong làm Thượng khanh, yết kiến lần thứ ba được trao ấn Tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong lúc bấy giờ thiên hạ tranh nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà Ngu Khanh, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn tướng quốc, bỏ tước vạn hộ hầu mà lẻn ra đi. Nay kẻ sĩ nguy cấp khốn cùng chạy về với Công tử, Công tử lại hỏi “người như thế nào?”, thực là con người không dễ biết, biết người cũng không dễ vậy.

Tín Lăng Quân nghe qua lấy làm xấu hổ, vội vàng vén tóc đội mão, rồi bảo người đánh xe đuổi theo ra ngoại ô.

Trong khi đó, Ngụy Tề nhóng cổ trông chờ thực lâu nhưng không thấy tin tức gì. Ông ta nghĩ bụng: “Ngu Khanh bảo Tín Lăng Quân là người đại trượng phu, hào phóng, nếu tới nương nhờ thì sẽ được nghênh đón tức khắc, thế tại sao đi lâu như vậy mà không thấy trở về? Chắc là chuyện không thành rồi!”. Một chốc sau, Ngụy Tề thấy Ngu Khanh trở lại với đôi mắt ứa lệ, nói: “Tín Lăng Quân không phải là người đại trượng phu. Ông ta sợ nước Tần trả thù nên đã có ý từ chối tôi. Vậy tôi sẽ cùng ngài tìm đường tắt đi vào nước Sở.”

Ngụy Tề nói: “Trước đây do nhất thời tôi không chú ý, nên đã đắc tội với Phạm Thúc, làm liên lụy đến Bình Nguyên Quân, rồi lại liên lụy đến tiên sinh nữa. Tiên sinh đã vì tôi mà không ngại gian khổ, vượt núi vượt sông đến Đại Lương, nhưng không ngờ bị người ta từ chối. Nay nếu tiếp tục đi sang nước Sở là nước mình chưa biết rõ nội tình, để tìm người che chở, để sống hết kiếp tàn thì chi bằng chết quách đi cho xong.”

Nói dứt lời, Ngụy Tề rút thanh gươm ra tự sát. Ngu Khanh vội vàng bước tới đoạt lấy thanh gươm, nhưng không ngờ lưỡi gươm bén đã cắt đứt cổ họng Ngụy Tề rồi. Ngu Khanh đang hết sức đau đớn, thì cỗ xe của Tín Lăng Quân cũng đuổi theo kịp.

Ngu Khanh nhìn thấy, vội vàng tìm cách lánh mặt, không gặp Tín Lăng Quân. Khi Tín Lăng Quân trông thấy xác chết của Ngụy Tề, bèn ôm xác khóc to, nói: “Đây chính là cái lỗi của Vô Kỵ” [tên tự của Tín Lăng Quân]

Lúc bấy giờ Triệu Vương chưa bắt được Ngụy Tề, lại hay tin tướng quốc Ngu Khanh đã bỏ đi, đoán biết hai người sẽ dẫn nhau sang nước Hàn hoặc nước Ngụy. Nhà Vua bèn sai bốn phi kỵ tức tốc đuổi theo để bắt lại. Khi những sứ giả này đến ngoại ô kinh thành của nước Ngụy, được biết Ngụy Tề đã tự sát bèn vào tâu lại cho Vua Ngụy biết, muốn cắt lấy đầu của Ngụy Tề để mang đi đánh đổi cho Bình Nguyên Quân được trở về nước Triệu. Tín Lăng Quân sai thủ hạ tẩn liệm xác Ngụy Tề, trong lòng cảm thấy rất bất nhẫn.

Sứ giả nước Triệu bèn nói: “Bình Nguyên Quân cũng giống như ngài vậy. Bình Nguyên Quân đối với Ngụy Tề rất có tình cảm không khác ngài bao nhiêu. Ngụy Tề nếu còn sống, thì thần không bao giờ dám nói những lời nói này. Nhưng nay Ngụy Tề đã chết, vậy với một xác chết vô tri mà lại khiến cho Bình Nguyên Quân phải bị Tần bắt giữ, chả lẽ ngài nhẫn tâm hay sao?”

Tín Lăng Quân bất đắc dĩ, phải cắt lấy thủ cấp của Ngụy Tề, dùng một chiếc hộp đựng gọn, rồi phong kín trao cho sứ giả nước Triệu. Riêng xác của Ngụy Tề, ông cho mai táng ở ngoại ô thành Đại Lương.

Ngu Khanh sau khi cáo biệt thi thể của Ngụy Tề, cảm thấy cuộc đời quá nhiều điều hiểm ác, nên ngao ngán cho cuộc sống ở hồng trần, không muốn tiếp tục làm quan nữa. Rốt cục, Ngu Khanh đi đến núi Bạch Vân quy ẩn, và viết sách để phổ biến học thuyết của mình, với nội dung thường mỉa mai chê trách thế sự. Sách này được gọi là Ngu Thị Xuân Thu.

Có người làm thơ khen rằng:

Bất thị cùng sầu khẳng trước thư
Thiên thu cao thượng thuyết Ngu hề
Khả lân hữu dụng văn chương thủ
Tướng ấn khinh phao tuần Ngụy Tề!

Dịch:

Không phải quá buồn đâu viết sách
Nghìn thu cao thượng ấy Ngu hề
Đáng thương người giỏi văn chương ấy
Bỏ ấn từ quan theo Ngụy Tề!

Triệu Vương đem thủ cấp cua Ngụy Tề cấp tốc đưa đến Hàm Dương. Tần Chiêu Tương Vương đem chiếc thủ cấp này tặng lại cho Phạm Thư. Phạm Thư hết sức cảm kích.

Sau khi mang thủ cấp về phủ riêng, Phạm Thư ra lệnh cho thợ làm đồ sơn chế tác chiếc thủ cấp thành một cái bô để tiểu đêm, và nói: “Trước đây nhà ngươi sai xá nhân tiểu lên mình ta, vậy nay ta cho ngươi ở dưới cửu tuyền, luôn phải ngậm nước tiểu của ta mãi mãi!”

Tần Chiêu Tương Vương thấy đã thực hiện được lời hứa, bèn dùng nghi lễ tiễn đưa Bình Nguyên Quân trở về nước Triệu. Một trận phong ba lắng đi từ đó.

Phạm Thư tiếp tục hiến kế

Một hôm, Phạm Thư nói với Tần Chiêu Tương Vương: “Thần nghe Vương hậu của nước Tề là người hiền thục lại có mưu trí. Thần có một kế, vậy có thể phái người đến đây để thử. Nếu Vương hậu nước Tề làm được, thì ta không thể xâm phạm nước họ.”

Tần Chiêu Tương Vương bằng lòng. Phạm Thư bèn sai sứ giả mang đôi vòng ngọc dính liền vào nhau, đến hiến lên cho Vương hậu nước Tề nói: “Nếu nước Tề có người lấy được hai vòng ngọc này rời ra, thì vua Tần sẽ bái phục.”

Vương hậu nước Tề sai người đem búa sắt đến, rồi đập vỡ một vòng ngọc, để lấy vòng ngọc kia ra, nói với sứ giả của nước Tần: “Xin sứ giả hãy về tâu lại với Tần Vương, là mụ già này đã mở được hai vòng ngọc ra rồi đấy!”

Sứ giả về báo lại. Phạm Thư nói: “Vương hậu của nước Tề đúng là bậc hào kiệt trong nữ giới, ta không thể xâm phạm nước họ.”

Qua đó, nước Tần ký kết liên minh với nước Tề, đôi bên không ai xâm phạm ai, giúp cho Tề sống được những ngày yên ổn.

Riêng Thái tử của nước Sở là Hùng Hoàn đến nước Tần để làm con tin. Nước Tần đã giữ Hùng Hoàn ở lại 16 năm mà chưa cho về. Nhân dịp có sứ giả nước Tần sang nước Sở để giao hảo, sau khi xong việc, sứ giả nước Sở là Chu Anh theo sứ giả nước Tần đến Hàm Dương. Châu Anh cho biết Sở Vương hiện nay bệnh nặng, e khó qua khỏi, vậy xin Thái phó Hoàng Yết nói lại với Thái tử Hùng Hoàn: “Sở Vương bệnh nặng mà Thái tử ở xa tận nước Tần, vạn nhất Sở Vương giá băng, không có Thái tử ở bên cạnh, các công tử khác sẽ lập mưu lên nối ngôi, thì xã tắc của nước Sở e không phải là của Thái tử nữa. Vậy thần xin Thái tử yết kiến Thừa tướng của nước Tần là Phạm Thư, để xin Tần cho Thái tử trở về Sở.”

Thái tử đồng ý. Hoàng Yết liền đến phủ Thừa tướng, nói lại với Phạm Thư: “Thừa tướng có biết Sở Vương đang bị bệnh nặng không?”

Phạm Thư nói: “Sứ giả nước Sở có nói cho tôi biết rồi.”

Hoàng Yết lại nói: “Thái tử nước Sở đã ở làm con tin tại nước Tần từ lâu, có mối tương quan mật thiết với các đại thần ở nước Tần. Nếu nay Sở Vương giá băng mà Thái tử lên nối ngôi, thì chắc chắn sẽ nhất mực cung kính nước Tần và trở thành nước bạn bè với Tần. Nếu Tướng quốc có thể nhân lúc này cho Thái tử trở về Sở để lên nối ngôi, thì Thái tử chắc chắn sẽ vô cùng cảm kích Tướng quốc. Trái lại, nếu không tha Thái tứ trở về, để công tử khác lên nối ngôi nước Sở, thì Thái tử tiếp tục ở nước Tần sẽ chỉ là một người bình dân mà thôi. Hơn nữa, nếu người Sở thấy Thái tử của họ không được trở về, sau này sẽ không bao giờ đưa ai đến Tần làm con tin nữa. Vậy thay vì để Thái tử Hùng Hoàn trở thành một người bình dân áo vải, từ đó mất thiện cảm với nước Sở, thì chi bằng nên kịp thời để Thái tử trở về Sở là hơn. Không rõ ý của Tướng quốc như thế nào?”

Phạm Thư gật đầu bằng lòng, nói: “Lời nói của ngài đúng lắm”.

Bèn dựa vào lời của của Hoàng Yết tâu lên Tần Chiêu Tương Vương. Tần Vương nói: “Có thể bảo Thái phó là Hoàng Yết trở về Sở để xem bệnh tình của vua Sở trước. Nếu đúng là bệnh nặng, thì mới trở qua rước Thái tử.”

Hoàng Yết nghe tin Thái tứ không thể đi cùng mình trở về nước Sở ngay, bèn bàn riêng với Thái tử: “Tần Vương giữ Thái tử mà không chịu trả, tức muốn giở lại trò cũ. Như trước đây Hoài Vương vì quá nôn nóng, nên chịu cắt đất để cầu hòa. Vậy, nếu nước Sở cử người sang đây đón Thái từ thì lại trúng kế của nước Tần. Còn như không cử người sang đón Thái tử, thì Thái tứ sẽ vĩnh viễn trở thành tù binh của nước Tần.”

Thái tử quỳ xuống đất, nói: “Vậy theo ý Thái phó thì chúng ta phải tính sao?”

Hoàng Yết đáp: “Với ngu kiến của thần, chi bằng Thái tử cải trang thành người bình dân rồi bỏ trốn. Hiện nay sứ giả của nước Sở sắp trở về nước, vậy không nên bỏ lỡ cơ hội quý báu này. Thần sẽ một mình ở lại nước Tần, mọi hậu quả do thần gánh hết.”

Thái tử nói: “Nếu chuyện này thành, thì Thái phó sẽ là người làm chủ phân nửa giang sơn của nước Sở.”

Hoàng Yết bèn tự mình đi gặp Chu Anh, đem kế hoạch Thái tử bỏ trốn nói cho. Chu Anh biết. Chu Anh hoàn toàn tán đồng. Thế là Thái tử Hùng Hoàn cải trang như bình dân, ngồi đánh xe rồi cùng sứ giả của nước Sở là Chu Anh vượt ra khỏi Hàm Cốc Quan. Lính canh giữ quan ải của nước Tần không hề phát giác được.

Hoàng Yết ở lại một mình tại lữ quán, Tần Vương ra lệnh cho ông ta trở về nước Sở để xem bệnh tình của vua Sở ra sao, nhưng Hoàng Yết tâu: “Thái tử đang có bệnh, không ai trông nom, vậy chờ Thái tử bình phục thì thần mới trở về Sở để thăm bệnh vua Sở được.”

Nửa tháng sau, Hoàng Yết đoán biết Thái tử đã vượt ra khỏi Hàm Cốc Quan rồi, nên vào xin ra mắt Tần Chiêu Tương Vương, dập đầu tạ tội, nói: “Thần Hoàng Yết vì sợ Sở Vương giá băng bất ngờ, Thái tử sẽ không được nối ngôi, sau này sẽ không thể phụng sự cho nước Tần, nên đã tự mình để Thái tử trở về nước Sở. Nay chắc là Thái tử đã ra khỏi Hàm Cốc Quan, vậy thần có tội khi quân, vậy xin Đại vương xét xử, thần dù có chết cũng không oán hận.”

Tần Chiêu Tương Vương cả giận, nói: “Người nước Sở đúng là xảo trá đa đoan, lại dám cả gan làm như thế ư?”

Tần Chiêu Tương Vương bèn sai tả hữu bắt Hoàng Yết mang đi chém.

Phạm Thư can: “Dù chém Hoàng Yết thì vẫn không thể bắt Thái tử nước Sở trở về. Trái lại, vì đó mà hai nước sẽ tuyệt giao, không còn giữ được tình hòa hiếu nữa. Vậy chi bằng khen thưởng ông ta là người có lòng trung thành, rồi thả cho trở về Sở. Một khi Sở Vương chết, Thái tử lên nối ngôi, Hoàng Yết chắc chắn sẽ được cử làm Thừa tướng. Như vậy, vua tôi của nước Sở sẽ cảm tạ ân đức của nước Tần, tất nhiên họ cũng sẽ một lòng vì nước Tần, và luôn chịu nghe theo mạng lệnh của nước Tần.”

Tần Chiêu Tương Vương cảm thấy có lý, nên ban thưởng trọng hậu cho Hoàng Yết rồi để ông ta được trở về nước Sở. Sau khi Hoàng Yết trở về được ba tháng thì Vua Sở giá băng, Thái tử Hùng Hoàn lên nối ngôi vua, tức là Sở Khảo Liệt Vương, cử Thái phó Hoàng Yết làm Tướng quốc, và lấy vùng đất Giang Đông làm đất phong cho Hoàng Yết, ban hiệu là Xuân Thân Quân.

Tần Chiêu Tương Vương sau khi giao hảo với nước Tề và nước Sở, tức đã hoàn thành sách lược “giao hảo với nước xa”, liền thực thi sách lược “tấn công nước gần”. Nước Hàn do giáp ranh với nước Tần, lại là một nước yếu nên chẳng may đã trở thành vật hy sinh đầu tiên sách lược này.

Năm 262 tCN, Tần Chiêu Tương Vương sai Đại tướng Vương Hột dẫn đại quân đi phạt Hàn, chiếm được Thành Dã Vương (nay là Tẩm Dương, thuộc Tỉnh Hà Nam). Con đường từ Thượng Đảng dẫn về kinh đô của nước Hàn bị gián đoạn.

Viên đại thần trấn giữ Thượng Đảng thấy đại cuộc đã hỏng, trong khi bối rối, bèn nghĩ ra cách giá họa cho người khác. Ông nói với thuộc hạ: “Tần chiếm Dã Vương, thì Thượng Đảng cũng sẽ khó giữ được. Vậy, nếu phải đầu hàng Tần thì chi bằng nên đầu hàng Triệu. Tần tức giận Triệu ngồi không mà chiếm được Thượng Đảng, tất nhiên sẽ xua quân đánh Triệu. Một khi Triệu bị Tần đánh, tất nhiên phái liên kết với nước Hàn. Như vậy, Hàn và Triệu sẽ trở thành hai nước cùng chung hoạn nạn, phải hợp tác lo chống Tần. Như vậy, biết đâu có hy vọng thắng được.”

Ông ta bèn phái sứ giả cầm thư và bản đồ Thượng Đảng, đến hiến lên cho Triệu Hiếu Thành Vương. Triệu Vương mở thư ra xem, thấy đại khái nói: “Tần tấn công Hàn gấp, Thượng Đảng sắp vào tay Tần. Quan và dân ở đây không muốn lệ thuộc vào Tần, bằng lòng lệ thuộc vào Triệu. Thần không dám trái ý quan dân ở đây, nên xin đem 17 thành thuộc phạm vi cai trị của thần, dâng lên cho Đại Vương, mong Đại vương nhận lấy”.

Triệu Vương xem qua cả mừng, vui vẻ nhận tấm bản đồ Thượng Đảng.

Bình Dương Quân Triệu Báo can: “Thần nghe vô cớ mà thu được lợi, ấy chính là tai họa. Vậy xin Đại vương suy nghĩ rồi mới làm, đừng tiếp nhận dễ dàng như thế.”

Triệu Vương nói: Dân ở Thượng Đảng sợ Tần và hướng về Triệu nên mới lệ thuộc vào ta, vậy tại sao gọi là vô cớ được?”

Triệu Báo đáp: “Tần có ý muốn chiếm dân và đất của nước Hàn, nên mới ra sức đánh chiếm Dã Vương, để cắt đứt đường đi Thượng Đảng, không cho liên hệ nhau. Tần xem Thượng Đảng là món ăn trong túi của mình, thò tay vào là lấy được. Một khi Triệu chiếm lấy Thượng Đảng, thì Tần sau nhiều năm sử dụng can qua, mong đạt mục đích, há chịu để cho người ngồi không phỏng tay trên sao? Điều đó chính là chỗ thần muốn nói ‘cái lợi vô cớ’. Hơn nữa, Phùng Đình sở dĩ không nạp đất cho Tần, mà lại đưa về cho Triệu, là có ý đồ muốn giá họa ho Triệu, để giải vây cho Hàn. Đại vương chả lẽ không thấy điều đó sao?”

Triệu Vương cho lời nói trên là không xác đáng, nên lại triệu Bình Nguyên Quân Triệu Thắng đến để quyết định. Triệu Thắng nói: “Phát hằng triệu binh đi đánh nước người, trải qua nhiều năm tháng mà chưa chiếm được thành. Nay chẳng hao một binh, một tốt nào, vậy mà lại chiếm được 17 thành. Một nguồn lợi to như vậy, nghìn năm chưa gặp, vậy bây giờ không nhận còn đợi đến bao giờ?”

Triệu Vương nói: “Ý kiến cửa khanh rất hợp với Trẫm.”

Triệu Vương bèn cử Bình Nguyên Quân dẫn năm vạn binh mã đi Thượng Đảng để tiếp nhận vùng đất này. Đồng thời, phong cho Phùng Đình ba vạn hộ, ban hiệu là Hoa Lăng Quân, và vẫn có nhiệm vụ giữ đất Thượng Đảng. Phùng Đình đóng cửa ngồi khóc, không ra tương kiến Bình Nguyên Quân. Bình Nguyên Quân cố nài nỉ,

Phùng Đình nói: “Tôi có ba điều bất nghĩa, nên không thể gặp mặt sứ giả. Tôi giữ đất cho chúa, chưa chết mà đã đầu hàng, đó là một điều bất nghĩa. Chưa được lệnh của chúa, thế mà tự mình dám quyết định, mang đất hiến cho nước Triệu đó là hai điều bất nghĩa. Bán đất của chúa để được phú quý vinh hoa, đó là ba điều bất nghĩa.”

Bình Nguyên Quân khen rằng: “Phùng Đình quả là một vị trung thần!”

Thế là ông ngồi lì trước cửa chờ đợi suốt ba hôm, không chịu rời đi. Phùng Đình thấy hành động của Bình Nguyên Quân lấy làm cảm động, bèn ra tương kiến, nhưng vẫn rơi lệ. Phùng Đình ngỏ ý giao đất, nhưng không muốn giữ chức vụ tiếp tục cai quản đất này, xin Bình Nguyên Quân hãy chọn người khác.

Bình Nguyên Quân an ủi: “Tâm sự của ngài, Thắng tôi đã biết. Nhưng nếu ngài không lãnh nhiệm vụ giữ vùng đất này, thì không ai có đủ uy tín trong bá tánh tại Thượng Đảng này hơn ngài cả.”

Phùng Đình bèn đồng ý tiếp tục giữ chức vụ, nhưng không thụ phong.

Trong khi Bình Nguyên Quân sắp rời đi, Phùng Đình nói: “Đất Thượng Đảng sở dĩ được đưa cho Triệu là vì không đủ sức chống lại Tần, vậy mong công tử tâu lại với Triệu Vương, mau phái binh sĩ, danh tướng đến đây mới là thượng sách.”

Bình Nguyên Quân trở về báo lại cho Triệu Vương. Triệu Vương bèn bày tiệc linh đình, một là để tẩy trần cho Bình Nguyên Quân, hai là ăn mừng Triệu không cần đánh mà lai được rất nhiều đất. Nhà Vua nào nghĩ tới đại họa sắp giáng xuống đầu.

Tần Chiêu Tương Vương được tin Phùng Đình đã chạy theo Triệu Quốc, bèn ra lệnh cho Vương Hột cấp tốc tiến quân vào Thượng Đảng để chiếm vùng đất này. Phùng Đình cố thủ được hai tháng, nhưng vẫn không thấy quân Triệu tiếp viện. Rốt cục Phùng Đình không chống giữ nổi, rút tàn binh bỏ chạy sang Triệu. Thượng Đảng bị mất. Lúc bấy giờ Triệu Vương cử Liêm Pha làm Thượng tướng, dẫn quân hai chục vạn đi chi viện cho Thượng Đảng. Nhưng đại đội binh mã của Liêm Pha kéo tới Trường Bình Quan (nay là Huyện Cao Bình, thuộc Tỉnh Sơn Tây) thì gặp Phùng Đình, mới biết Thượng Đảng đã mất, và quân Tần đang truy đuổi theo. Liêm Pha bèn ra lệnh cho tướng sĩ hạ trại, xây đắp hào lũy, từ Đông chạy sang Tây gồm mười mấy điểm, đông như sao giăng. Liêm Pha lại phái một vạn binh để Phùng Đình giữ thành Quang Lang (nay là địa phương nằm về phía Nam huyện Cao Bình hai mươi lăm dặm). Lại phái thêm hai vạn binh để Đô úy Cái Phụ, và Cái Đồng chia nhau chỉ huy, giữ Nhị Chương thành ở phía Đông và phía Tây. Liêm Pha lại phái tùy tướng Triệu Gia, xua quân đi thăm dò binh Tần.

Triệu Gia chỉ huy năm nghìn quân, ra khỏi Trường Bình Quan hai mươi dặm thì gặp tướng Tần là Tư Mã Cánh. Triệu Gia sợ hãi, và bị Tư Mã Cánh chém chết dưới ngựa giữa lúc chưa kịp lấy lại bình tĩnh. Tư Mã Cánh tiếp tục xua quân về hướng Đông để sát phạt quân Triệu.

Liêm Pha nghe tin biết quân Tần nhuệ khí rất cao, không thể chống trả, nên xuống lệnh cho các doanh trại: “Phải cố thủ, không được ra ứng chiến với quân Tần.” Đồng thời, ông cũng xuống lệnh cho quân sĩ đào hào thêm sâu, đắp lũy thêm cao, cố thủ không ra.

Phạm Thư mưu hạ bệ Liêm Pha

Vương Hột khiêu chiến mấy lần, quân Triệu vẫn không ra. Quân Tần và quân Triệu đối mặt nhau đến hơn bốn tháng. Vương Hột không làm gì được, nên phái người trở về báo cáo với Tần Chiêu Tương Vương. Ông bèn triệu Phạm Thư đến để bàn bạc đối sách.

Phạm Thư khuyên rằng: “Liêm Pha là người có nhiều mưu lược, biết quân dân sĩ khí hiện nay rất cao nên không dám giao phong, mà cố ý tránh va chạm. Ông ta cho rằng quân dân từ xa kéo đến đất nước của người khác, không được địa lợi lại mất nhân hòa, sự bổ sung lương hướng, vũ khí, binh sĩ, đều hết sức khó khăn, cho nên cần tốc chiến tốc quyết và không muốn đánh kéo dài. Do vậy, ông ta mới đào hào sâu, đắp lũy cao để cố thủ, chờ cho binh mã của Tần mệt mỏi thì mới tìm cách đánh bại. Vậy, theo ý kiến của thần, con người này mà không tìm cách hạ bệ thì không sao phá được Triệu.”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Khanh có kế gì để hạ bệ được Liêm Pha?”

Phạm Thư cho những người chung quanh lui ra, mới nói riêng với Tần Vương: “Muốn hạ bệ Liêm Pha thì phải dùng kế phản gián. Phải làm như vầy… như vầy mới được, và phải chịu tốn nghìn vàng thì mới thành công.”

Tần Chiêu Tương Vương cả mừng, xuống lệnh mở quốc khố lấy đủ số vàng trao cho Phạm Thư.

Phạm Thư sai những người môn khách tâm phúc đi theo đường tắt lẻn vào Hàm Đan, dùng nghìn vàng để hối lộ những người chung quanh Triệu Vương, để họ phao tin đồn nhảm rằng: “Triệu tướng là Duy Mã Phục [tức Triệu Xa], là người dụng binh và đánh giặc giỏi nhất. Nghe đâu con trai của ông này là Triệu Quát còn dũng cảm hơn cả cha. Nếu cử Triệu Quát làm tướng, chắc chắn sẽ đánh bại được quân Tần. Liêm Pha tuổi đã già, mất dũng khí nên đánh trận nào thua trận nấy, để chết quân Triệu lên đến ba bốn vạn. Nay đứng trước sức uy hiếp của quân Tần, chắc chắn không bao lâu ông ta sẽ đầu hàng nước Tần thôi!”

Triệu Vương trước tiên nghe tin Triệu Gia bị tướng Tần chém chết, lại để mất liên tiếp ba thành, nên sai người đến Trường Bình để đốc thúc Liêm Pha xuất chiến. Liêm Pha kiên quyết chủ trương cố thủ trong hào sâu lũy cao của mình, không bằng lòng ra đánh nhau với quân Tần. Triệu Vương thấy vậy, hoài nghi Liêm Pha tuổi già nên sợ đánh nhau, nhất là khi nghe những lời đồn nhảm từ những người chung quanh, nhằm ly gián giữa nhà Vua với Liêm Pha, thì tin là sự thật, bèn cho triệu Triệu Quát đến hỏi: “Khanh có thể chia sẻ nỗi buồn với Trẫm không? Có thể xua quân đánh Tần không?”

Triệu Quát đáp: “Nếu Tần cử Võ An Quân làm tướng, thì thần còn phải trù hoạch mọi cách đối phó, chứ để một tên miệng còn hôi sữa như Vương Hột làm tướng, thì có đáng gì!”

Triệu Vương nói: “Tại sao?”

Triệu Quát đáp: “Võ An Quân Bạch Khởi chỉ huy quân Tần đã nhiều năm, trước tiên đánh bại quân Hàn và Ngụy tại Y Khuyết, giết chết hai mươi bốn vạn người. Kế đó lại tấn công Ngụy, chiếm lấy sáu mươi mốt thành. Rồi lại tấn công Sở ở phía Nam, chiếm lấy Yên, Sính, bình định Vu Kiềm. Chẳng bao lâu sau lại tấn công Ngụy, chiếm Mang Mão, chém mười ba vạn quân của đối phương. Xong, lại tấn công Hàn, chiếm được năm thành, chém năm vạn quân, rồi lại chém tướng Triệu là Giả Yển, nhận chìm hai vạn binh sĩ của ông này xuống dòng sông. Bạch Khởi hễ đánh là thắng, hễ tấn công thành là hạ được, oai danh truyền đi khắp nơi, binh sĩ nghe đến đều run cầm cập. Nếu thần đắp lũy xây hào để chong mặt với ông ta, thì thắng hay bại mỗi bên đều một nửa, nên cần phải tốn thời giờ trù hoạch mới đối phó được. Còn như Vương Hột mới ra làm tướng cho Tần, chỉ thừa lúc Liêm Pha sợ đánh nhau, nên mới dám tiến quân sâu vào đất ta. Nếu là thần, thì thần đã quét họ như gió mùa Thu quét lá vàng, nhanh chóng đuổi quân Tần ra khỏi Thượng Đảng rồi.”

Triệu Vương nghe thế cả mừng, bèn cử Triệu Quát làm thượng tướng, ban cho nhiều vàng bạc, gấm vóc, bảo cầm cờ tiết đi thay thế Liêm Pha, đồng thời, lại cấp cho Triệu Quát thêm 25 vạn binh mã, ra lệnh cho ông ta nhanh chóng kéo đến Trường Bình.

Sau khi kiểm duyệt binh mã xong, Triệu Quát chở hết vàng và gấm vóc về nhà ra mắt mẹ già. Bà mẹ nói: “Phụ thân của con có dặn dò trước khi lâm chung, bảo con tuyệt đối không bao giờ được làm tướng, chả lẽ con quên rồi hay sao? Vậy hãy mau đến gặp Triệu Vương từ chức đi nào!”

Triệu Quát đáp: “Không phải con không bằng lòng từ chức thượng tướng, mà do trong triều đình không còn ai bằng con cả.”

Triệu mẫu thấy không thể thuyết phục con trai mình, bèn dâng thư lên vua can gián: “Con trai tôi là Triệu Quát, không bao giờ đọc sách của cha nó để lại, không biết cách tùy cơ ứng biến, vậy tuyệt đối không phải là người có tài làm Đại tướng, vậy mong Đại vương đừng trọng dụng nó”.

Triệu Vương bèn triệu kiến bà mẹ, hỏi rõ căn do.

Bà mẹ đáp: “Cha của Quát là Xa khi làm tướng, được tưởng thưởng đều chia cả hết cho tướng sĩ của mình. Và ngày thụ mệnh thì sống ngay trong quân ngũ, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, không khi nào về nhà. Mỗi việc gì đều hỏi ý kiến rộng rãi của các tướng sĩ, không dám tự chuyên mà hành động. Nay Triệu Quát làm tướng, được ban cho vàng và gấm vóc thì chở hết về nhà riêng. Làm tướng như vậy có được không? Cha nó trước khi lâm chung, có cảnh báo với tôi rằng. ‘Quát nếu làm tướng sẽ đưa binh sĩ của nước Triệu vào chỗ thất bại’. Tôi mãi ghi nhớ lời nói trên, vậy mong Đại vương nên chọn một tướng tài khác, tuyệt đối không thể dùng Quát.”

Triệu Vương nói: “Ý ta đã quyết, vậy xin đừng nói nữa.”

Mẫu thân của Triệu Quát nói: “Đại vương không chịu nghe theo lời khuyên của tôi, nếu có bại trận thì xin đừng bắt tội liên đới với cả nhà tôi.”

Triệu Vương chấp thuận lời yêu cầu của Triệu mẫu.

Triệu Quát dẫn đại quân rời khỏi Hàm Đan, nhắm hướng Trường Bình tiến tới. Những môn khách được Phạm Thư phái đi nghe ngóng ở Hàm Đan, sau khi được biết Triệu Quát nói với Triệu Vương những lời nói như trên, và được Triệu Vương cử làm Đại tướng, đang chọn ngày để xuất quân thì cấp tốc trở về Hàm Dương để báo tin.

Tần Chiêu Tương Vương bàn với Phạm Thư: “Hai quân Tần và Triệu đã giằng co kéo dài, vậy nhất định phải do Võ An Quân mới có thể kết thúc cuộc chiến này.”

Thế là Tần Chiêu Tương Vương cử Bạch Khởi làm Thượng tướng, Vương Hột làm Phó tướng. Đồng thời ra lệnh cho tất cả tướng sĩ phải giữ bí mật tin này. Nhà Vua ra lệnh rất nghiêm: “Ai dám tiết lộ tin Võ An Quân làm Tướng, thì lập tức chém đầu không tha.”

Sau khi Triệu Quát xua quân tới Trường Bình, Liêm Pha xem qua phù tiết rồi trao quân tịch cho Triệu Quát, còn mình thì dẫn hơn một trăm thân binh trở về Hàm Đan. Triệu Quát tiếp nhận ấn soái rồi thay đổi tất cả những gì Liêm Pha đã thi hành. Ông ta tập hợp tất cả những hào lũy bố trí tản mát lại thành một đại doanh. Lúc bấy giờ Phùng Đình có mặt trong quân ngũ lên tiếng can gián nhưng Triệu Quát không nghe. Cùng lúc, Triệu Quát dùng tướng sĩ của mình mang theo, thay thế tất cả những tướng sĩ cũ. Rồi ra lệnh nghiêm khắc: “Nếu quân Tần tới thì phải dũng cảm chiến đấu, khi thắng thì truy kích tới cùng không tha, đừng bao giờ để cho một tên lính, một kỵ mã của quân Tần được trở về!”

Sau khi tới quân ngũ, Bạch Khởi nghe Triệu Quát thay đổi hết những mệnh lệnh của Liêm Pha, bèn phái ba nghìn binh Tần đi khiêu chiến. Triệu Quát xua hơn một vạn quân ra nghênh địch. Quân Tần thất bại, rút chạy trở về.

Bạch Khởi đứng trên cao nhìn vào quân Triệu, nói với Vương Hột: “Tôi biết cách đánh thắng quân Triệu rồi.”

Sau khi đắc thắng, Triệu Quát khoa chân múa tay, quên đi tất cả, sai người đến trước doanh trại của quân Tần để hạ chiến thư.

Bạch Khởi nói với Vương Hột: “Thong thả sẽ quyết chiến.”

Thế rồi Bạch Khởi ra lệnh lui quân ra xa mười dặm, đại quân cho hạ trại tại chỗ đóng quân cũ của Vương Hột.

Triệu Quát thấy quân Tần rút lui, cười nói: “Quân Tần sợ ta rồi!” Dứt lời, Triệu Quát sai giết bò bày rượu để khao thưởng tướng sĩ. Đồng thời truyền lệnh: “Ít hôm nữa, khi quyết chiến ta nhất định sẽ bắt sống Vương Hột, để làm trò cười cho chư hầu chơi!”

Để làm cho địch quân càng thêm mê hoặc, càng thêm có tư tưởng khinh địch, Bạch Khởi xuống lệnh cho các tướng: Tướng quân Vương Bôn, Vương Lăng mỗi người dẫn một vạn binh, dẫn chiến xa, để cùng đánh luân phiên với Triệu Quát. Chỉ cho phép thua, không cho phép thắng. Chỉ cần ai dụ được quân Triệu đến tấn công doanh trại của Tần, thì kể đó là một chiến công. Lại sai Đại Tướng Tư Mã Thác, Tư Mã Cánh mỗi người dẫn một vạn rưỡi quân theo đường tắt đi vòng ra phía sau lưng của quân Triệu, cắt đứt đường vận lương của họ.

Bạch Khởi lại sai Đại tướng Hồ Thương dẫn hai vạn binh, đóng ở vùng phụ cận. Chờ khi thấy quân Triệu mở cửa doanh trại để xuất kích quân Tần thì ào ra sát phạt, cắt họ thành hai đoạn. Sai Đại tướng Mông Ngao, Vương Tiễn, mỗi người chỉ huy năm nghìn khinh kỵ làm lực lượng cơ động, tiếp ứng bất cứ lúc nào. Riêng Bạch Khởi và Vương Hột thì cố thủ tại doanh trại chính. Tất cả mọi việc được sắp xếp xong, trên mặt Bạch Khởi hiện lên một nụ cười mà người thường khó trông thấy. Đúng là: “An bày địa võng thiên la, để chờ tóm gọn quân thù kiêu căng.”

Riêng Triệu Quát thì xuống lệnh cho tướng sĩ, phải nấu cơm ăn no vào lúc canh tư, canh năm thì lo thu thập hành trang, và đến bình minh thì dàn chiến xa tiến tới. Họ đi không đến năm dặm đường thì gặp binh Tần và bắt đầu đánh nhau. Triệu Quát phái tiên phong Phó Bảo ra quân trước. Tướng Tần là Vương Bôn xông tới nghênh chiến. Đôi bên đánh chừng ba mươi hiệp, Vương Bôn giả vờ thua chạy. Phó Bảo không biết đấy là kế của quân Tần, bèn thúc ngựa đuổi theo. Triệu Quát lại ra lệnh Vương Dung chỉ huy quân đội tiếp lên tiếp ứng, gặp tướng Tần là Vương Lăng. Đôi bên đánh nhau mấy hiệp thì Vương Lăng thua chạy. Triệu Quát thấy quân Triệu đắc thắng liên tiếp, bèn đích thân xua quân đuổi theo, có ý định đánh bại quân Tần trận này.

Nhưng người có nhiệm vụ giữ Thượng Đảng là Phùng Đình can ngăn: “Người Tần rất gian trá, việc bại quân của họ chưa đáng tin. Nguyên soái đừng vội truy kích.”

Triệu Quát không nghe, hấp tấp đuổi theo ngoài mười dặm, và đến trước doanh trại của quân Tần.

Vương Bôn và Vương Lăng chạy bọc theo doanh trại, các cửa chính nơi doanh trại quân Tần thì không mở. Triệu Quát bèn truyền lệnh áp tới tấn công để phá hủy doanh trại của Tần. Họ đánh liên tiếp mấy hôm, nhưng vì doanh trại của Tần quá kiên cố, nhất là quân Tần phản kháng rất ngoan cường, nên quân Triệu lớp chết lớp bị thương vô số, trong khi doanh trại của quân Tần thì vẫn trơ trơ.

Triệu Quát sai người ra lệnh cho hậu quân rời doanh trại cùng tiến lên. Nhưng ngay lúc đó, tướng Triệu là Tô Xạ phi ngựa đến báo: “Hậu doanh đã bị tướng Tần là Hồ Thương dẫn binh đánh xuyên hông, cắt đứt liên lạc với tiền quân rồi, không thể tới được.”

Triệu Quát cả giận, nói: “Hồ Thương quả là vô lý, ta sẽ đích thân đi thảo phạt hắn.”

Triệu Quát lại phái người đi nghe ngóng xem quân Tần tiến quân ra sao. Số người này trở về báo: “Quân Tần ở phía Tây đông nghẹt, nhưng phía đông thì không thấy người.”

Triệu Quát bèn xuống lệnh đại quân chuyển sang phía đông. Họ đi chưa được hai ba dặm đường, thì Mông Ngao từ trong ào ra sát phạt, to tiếng nói: “Bớ thằng con nít Triệu Quát, nhà ngươi đã trúng kế Võ An Quân của ta rồi, thế tại sao chưa chịu xuống ngựa đầu hàng?”

Triệu Quát cả giận, chong giáo muốn đánh nhau với Mông Ngao, nhưng biên tướng Vương Dung nói: “Không cần phải nhọc công đến nguyên soái, để tôi xông tới lập chiến công.”

Vương Dung xông lên đánh nhau quyết liệt với Mông Ngao.

Trong khi đôi bên chưa phân thắng bại, thì đại quân của Vương Tiễn lại kéo tới, hợp nhất cùng quân của Mông Ngao, ra sức sát phạt quân Triệu, khiến quân Triệu chết và bị thương vô số.

Triệu Quát thấy quân Tần quá dũng mãnh, đoán biết không thể thủ thắng, bèn đánh chiêng thu quân rồi hạ trại cạnh một vùng có nhiều thủy thảo.

Phùng Đình lại khuyên ngăn: “Hiện nay quân ta mặc dù thất lợi, nhưng vẫn còn sức chiến đấu, nếu cố gắng giao tranh với quân Tần còn có hy vọng phá được vòng vây, trở về đại doanh trại. Nếu hạ trại ở đây, chung quanh đều thụ địch, hậu quả sẽ khó lường trước, vậy xin nguyên soái suy nghĩ kỹ.”

Triệu Quát không nghe, ra lệnh cho binh sĩ đắp lũy cao, đào hào sâu để cố thủ. Một mặt sai người phi báo cho Triệu Vương để xin quân cứa viện, một mặt ra lệnh đi tìm hậu đội để lấy lương hướng. Nào ngờ đường vận lương đã bị Tư Mã Cánh dẫn binh cắt đứt. Thế là phía trước mặt là đại quân của Bạch Khởi chặn đường, còn đại quân của Hồ Thương, Mông Ngao thì chận ở phía sau. Mỗi ngày quân Tần đều truyền mạng lệnh của Vó An Quân, kêu gọi quân Triệu đầu hàng. Tới chừng đó, Triệu Quát mới biết Bạch Khởi đang có mặt trong quân Tần thật sự, nên khiếp sợ suýt nữa vỡ mật.

Riêng Tần Chiêu Tương Vương sau khi được tin báo thắng trận của Võ An Quân, biết mấy chục vạn quân Triệu đang bị bao vây tại Trường Bình, bèn đích thân đến Hà Nội (nay là vùng Tẩm Dương, thuộc Tỉnh Hà Nam), ra lệnh cho tất cả con trai từ mười lăm tuổi trở lên, đều phải tùng quân để bổ sung cho quân Tần. Đồng thời, nhà Vua cũng ra lệnh cho tất cả các cánh quân ở chung quanh, phải phối hợp hành động với quân chủ lực, tìm chặn đường vận lương cũng như chặn đường quân tiếp viện của Triệu.

Quân Triệu bị quân Tần vây khốn suốt 46 ngày, đã cạn lương thực, binh sĩ giết nhau để lấy thịt ăn là chuyện xảy ra hằng ngày. Triệu Quát xuống lệnh cấm hành động đó, nhưng không làm sao cấm được. Triệu Quát thấy viện binh lâu quá không đến, nếu kéo dài tình trạng này thì không cần quân Tần ra tay, bản thân quân Triệu cũng sẽ tự tiêu hao hết. Thay vì ngồi chờ chết, vậy tại sao không nghĩ tới liều chết phá vòng vây, để tìm sinh lộ? Triệu Quát bèn chia quân ra thành bốn cánh: Phá Báo chỉ huy một cánh phá vòng vây thoát ra hướng đông, Tô Xạ chỉ huy một cánh phá vòng vây thoát ra hướng tây, Phùng Đình chỉ huy một cánh phá vòng vây thoát ra hướng nam, Vương Dung chỉ huy một cánh phá vòng vây ra hướng bắc. Ông ta dặn dò bốn cánh quân này đồng loạt đánh trống đánh chiêng, rồi tràn lên chiến đấu. Nếu có cánh quân nào mở được đường máu, thì Triệu Quát sẽ thông báo cho ba cánh quân kia cùng thoát ra bằng con đường đó.

Nào ngờ Võ An Quân đã sớm có sự phòng bị, xuống lệnh cho những tay thiện xạ mang cung tên mai phục khắp bốn phía, hễ thấy binh tướng từ trong doanh trại của quân Triệu xông ra, thì thẳng tay bắn giết. Chính vì vậy mà bốn cánh quân Triệu tràn lên ba bốn lần đều bị quân Tần dùng loạn tiễn bắn lui trở về, không sao thoát ra được. Không còn cách nào khác hơn, Triệu Quát phải xuống lệnh ngừng cuộc chiến để phá vòng vây. Họ lại chịu bao vây thêm một tháng nữa. Trong vòng một tháng đó, quân Triệu giết nhau để lấy thịt ăn, người chết vô số kể. Triệu Quát hết sức tức giận, bèn chọn năm nghìn người khỏe mạnh nhất, mặc loại áo giáp dầy, ngồi trên những con tuấn mã thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu. Triệu Quát một mình cầm kích xông lên phía trước. Phó Báo và Vương Dung bám sát theo sau, định liều mạng phá vòng vây một lần nữa.

Tướng Tần là Vương Tiễn, Mông Ngao thấy thế, cùng xông tới chận Triệu Quát không cho thoát đi. Đôi bên đánh nhau ngoài ba mươi hiệp, dần dần Triệu Quát cảm thấy núng thế, bèn huơ kích đâm về phía đối phương một lượt rồi quay đầu ngựa nhắm doanh trại cửa Triệu bỏ chạy trở về. Không ngờ hai chân trước của con ngựa bị vấp, khiến đầu ngựa chúi xuống, và Triệu Quát bị ném xuống mặt đất.

Binh Tần thấy thế giương cung bắn ào ào tới, khiến Triệu Quát chỉ trong chốc lát, khắp cả thân mình đều trúng tên, giống như một cơn nhím. Thế là cuộc đời của “danh tướng trên giấy”, đành chịu vùi thây dưới chân Thái Hành Sơn. Phó Báo và Vương Dung cũng lần lượt bị chết trong chiến đấu. Quân Triệu như rắn không đâu, hàng ngũ hỗn loạn cả lên. Tô Xạ dẫn Phùng Đình cùng bỏ chạy.

Phùng Đình nói: “Tôi đã mấy lần khuyên ngăn Triệu Quát, nhưng ông ấy không nghe. Nay đến thế này rồi, đúng là trời muốn diệt ta, vậy còn chạy đi đâu nữa!” Dứt lời, Phùng Đình tuốt kiếm tự sát.

Chỉ còn Tô Xạ nhân lúc hỗn loạn, cố mở một con đường máu chạy thoát về phía bắc, và đến ẩn thân tại đất của người Hồ.

Bạch Khởi trông thấy quân Triệu rối loạn hàng ngũ, mất cả tinh thần chiến đấu, bèn dựng ở nơi cao một lá cờ chiêu hàng. Quân Triệu thấy cờ, đều vứt bỏ vũ khí quỳ xuống đất tung hô “vạn tuế” ba lần.

Sau khi Bạch Khởi đã chiêu hàng quân Triệu, sai người cắt đầu Triệu Quát, đưa đến trước doanh trại của quân Triệu để tiếp tục chiêu hàng. Lúc bấy giờ, quân Triệu còn hơn 20 ở trong doanh trại. Họ nhìn thấy chủ soái đã bị giết, nên không còn lòng dạ nào tiếp tục chiến đấu nữa, tất cả đều bằng lòng chịu hàng. Trong nhất thời, không giáp, vũ khí bị ném xuống đất chồng chất cao như núi. Tất cả xe cộ nặng trong doanh trại của quân Triệu đều bị quân Tần tịch thu.

Bạch Khởi bàn với Vương Hột: “Trước đây khi quân ta chiếm được Dã Vương, thì Thượng Đảng xem như đã thuộc về ta rồi. Thế mà quân dân tại đây không muốn đầu hàng Nhà Tần, lại bằng lòng đầu hàng Nhà Triệu. Nay số quân Triệu đầu hàng một khi họ làm phản, thì ta biết làm sao để đề phòng đây?”

Bạch Khởi bèn xuống lệnh chia hàng binh ra mười doanh trại, phái mười tướng lĩnh dẫn hai chục vạn quân Tần đến để trông coi. Đồng thời, ông cũng ban cho quân Tần nhiều bò và rượu để khao thưởng, và tuyên cáo: “Ngày mai này Võ An Quân sẽ tuyển lựa quân Triệu. Phàm những người chiến đấu giỏi sẽ được võ trang trở lại rồi đưa về nước Tần để sử dụng. Riêng những binh sĩ già yếu thì sẽ được trả về cho nước Triệu.”

Quân Triệu nghe thế hết sức vui mừng.

Ngay đêm đó, Võ An Quân truyền một lệnh đến cho mười vị tướng có nhiệm vụ canh giữ quân Triệu: “Đến đầu canh một, tất ca binh sĩ của Tần đều dùng một miếng vải trắng cột ngang đầu. Những người không có cột vải trắng tức là quân Triệu, phải giết tất cả.”

Quân Tần được lệnh liền tiến hành ngay. Hàng binh của Triệu không có sự đề phòng nào, mà trong tay cũng không có vũ khí, nên đành thúc thủ chịu chết. Số chạy thoát ra khỏi doanh trại, liền bị quân tuần tiễu của Mông Ngao và Vương Tiễn giết chết. Thế là 20 vạn quân Triệu bị giết sạch trong một đêm, máu chảy thành suối. Nước sông Dương Cốc (một con sông tại địa phương) trở thành đỏ ngầu, nên đến nay vẫn được mọi người gọi là “Đơn Thủy”. Võ An Quân sai binh sĩ chặt đầu quân Triệu chất thành đống trước doanh trại, được gọi là Núi Đầu lâu. Nếu tính chung số hàng binh bị giết tại Trường Bình, kể cả số hàng binh mà Vương Hột đã bắt được trước đây, tổng cộng lên đến 45 vạn người, đều bị giết sạch. Nguyễn Hiến Lê (2017) cho rằng có lẽ đó là con số phóng đại. Quân Tần chỉ chừa lại 240 người còn trẻ, tha cho họ trở về Hàm Đan để kể lại tình cảnh đó, tạo thêm uy thế cho quân Tần.

Riêng Triệu Vương ban đầu nhận được tin thắng trận của Triệu Quát báo về, trong lòng hết sức vui mừng. Nhưng sau đó nghe tin quân Triệu bị bao vây tại Trường Bình, liền triệu tập quần thần lại để bàn bạc việc đưa quân đi cứu viện. Nhưng, cũng liền đó, nhà Vua nhận được tin Triệu Quát đã chết ngoài mặt trận, còn 20 vạn quân Triệu đầu hàng đã bị Bạch Khởi giết sạch trong vòng một đêm, chỉ chừa 240 người cho trở về Triệu. Triệu Vương kinh hoàng thất sắc. Quần thần không ai là không run rẩy. Trong nhất thời, khắp cả thành Hàm Đan, con khóc cha, cha khóc con, anh khóc em, em khóc anh, vợ khóc chồng nổi lên bi thảm khắp phố phường.

Duy chỉ có bà mẹ của Triệu Quát, là lên tiếng, nói: “Kể từ khi Triệu Quát được cử làm tướng, tôi đã biết nó chắc chắn sẽ bị bại trận, khó sống sót trở về rồi!”

Do bà mẹ của Triệu Quát đã có lời thanh minh trước, nên Triệu Vương không bắt tội liên lụy đối với bà, trái lại, ban cho bà nhiều lương thực, gắm vóc để an ủi. Nhà Vua cũng không quên phái người đến tận nhà lão tướng Liêm Pha để tạ lỗi, ngỏ ý đáng tiếc là trước kia đã thay đổi tướng chỉ huy ngoài mặt trận như vậy.

Phạm Thư mưu hại Bạch Khởi

Trong khi khắp cả nước Triệu đang kinh hoàng, thì quan lại ngoài biên cương lại báo về: “Tần Vương đã chiếm lĩnh Thượng Đảng, tất cả mười bảy thành ở đây đều đầu hàng nước Tần. Nay Võ An Quân đang xua đại quân tiến tới, bảo là sẽ chiếm luôn Hàm Đan.”

Triệu Vương cấp tốc triệu tập quần thần lại, lên tiếng hỏi: “Ai có thể giúp quả nhân đẩy lui binh Tần?”

Quần thần đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai lên tiếng cả.

Bình Nguyên Quân trở về nhà, hỏi qua tất cả các môn khách đều không có ai làm được việc đó. Cũng may lúc bấy giờ có mặt Tô Đại đang là xá nhân của Bình Nguyên Quân, nghe vậy, bèn nói với ông ta: “Nếu Đại tôi có thể đến Hàm Dương, thì tôi sẽ ngăn chặn được binh Tần tấn công nước Triệu.”

Bình Nguyên Quân hỏi biện pháp của Tô Đại ra sao. Tô Đại bèn nói tỉ mỉ kế hoạch của mình, Bình Nguyên Quân cho rằng có thể thi hành được, bèn đem kế hoạch của Tô Đại tâu lại cho vua Triệu nghe. Vua Triệu cũng cho rằng có thể thi hành. Thế là nhà Vua liền ban tiền và vàng cho Tô Đại, để làm kinh phí cho Tô Đại đến hoạt động ở nước Tần.

Tô Đại ngày đi đêm nghỉ, không mấy hôm đã đến Hàm Dương. Ông vào ra mắt Phạm Thư, được Phạm Thư đón tiếp trọng hậu, hỏi: “Việc gì mà tới đây?”

“Tôi tới đây là vì chuyện của ngài” – Tô Đại đáp.

Phạm Thư ngạc nhiên, nghĩ bụng. “Ta có chuyện gì khó khăn đâu? Đối phương nói như vậy, ắt hẳn là có nguyên do, nên mới không ngại đường xa nghìn dặm tới đây, vậy ta cần phải hỏi cho rõ”.

Phạm Thư bèn hỏi: “Tô tiên sinh có điều gì cần chỉ giáo tôi?”

“Có phải Võ An Quân đã giết chết con trai của Mã Phục Tứ không?” Tô Đại lên tiếng hỏi lại Phạm Thư.

“Đúng thế.” Phạm Thư đáp.

“Có phải hiện nay ngài có ý định bao vây Hàm Đan chăng?” Tô Đại lại hỏi.

“Đúng vậy.” Phạm Thư đáp.

Tô Đại phân tích tường tận: “Võ An Quân dụng binh như thần, bản thân ông ấy là tướng của nước Tần, từng đánh và chiếm được hơn bảy chục thành, từng chém đầu gần một triệu binh sĩ của đối phương. Nay Võ An Quân thừa thắng định cử binh vây Hàm Đan, và chắc chắn Hàm Đan sẽ bị hạ. Nước Triệu sẽ bị diệt vong. Một khi nước Triệu diệt vong, thì nước Tần sẽ hoàn thành đế nghiệp. Một khi nước Tần đã hoàn thành đế nghiệp, thì Võ An Quân sẽ trở thành vị công thần đứng hàng đầu, cho dù Y Doãn dưới triều Vua Thang, Lã Vọng dưới triều Vua Châu vẫn không bằng dược. Ngài dù hiện giờ thế lực rất cao, nhưng đến chừng đó vẫn bị xem là người thấp hơn ông ấy một bậc.”

Phạm Thư nghe qua, cảm thấy lời nói của đối phương là có lý, bèn chồm người tới trước, hỏi: “Vậy theo ý của tiên sinh, thì tôi phải làm sao?”

Tô Đại chậm rãi, bình tĩnh đáp: “Chi bằng ngài nên cho nước Hàn và nước Triệu cắt đất để cầu hòa. Một khi Hàn và Triệu cắt đất cầu hòa, thì đó là công lao của ngài. Tiếp đến, ngài tìm cách giải trừ binh quyền của Võ An Quân. Như vậy, thì địa vị của ngài ở nước Tần sẽ vững như Thái Sơn.”

Phạm Thư nghe qua hết sức vui mừng, bèn bày tiệc để khoản đãi Tô Đại. Qua ngày hôm sau Phạm Thư vào yết kiến Tần Vương, nói: “Binh Tần chinh chiến ở bên ngoài đã lâu, chắc chắn rất mệt mỏi, vậy cần cho họ nghỉ ngơi một thời gian. Giờ đây, ta cho sứ thần sang nước Hàn và nước Triệu để phủ dụ, bảo họ nên cắt đất để cầu hòa.”

Tần Chiêu Tương Vương nói: “Như thế cũng được. Vậy trẫm phiền Tướng quốc lo liệu cho việc đó.”

Phạm Thư đem nhiều vàng bạc, gấm vóc tặng cho Tô Đại, để ông ta đi sang nước Hàn và nước Triệu du thuyết về vấn đề này. Hai vua Hàn và Triệu đang khiếp sợ binh lực của nước Tần, tha thiết muốn cắt đất cầu hòa, nên đồng ý ngay kế hoạch của Tô Đại.

Nước Hàn bằng lòng cắt giao cho Tần một thành là Viên Ung (nay nằm trong vùng Nguyên Dương, Tỉnh Hà Nam), còn Triệu bằng lòng cắt sáu thành. Cả hai nước đều sai sứ thần đến Tần để cầu hòa. Ban đầu Tần vương chê nước Hàn chỉ giao có một thành là quá ít, nhưng sứ thần của nước này nói: “Mười bảy huyện ở Thượng Đảng, đều là đất của nước Hàn, nay đều thuộc về nước Tần cả rồi.”

Tần Chiêu Tương Vương nghe qua, cất tiếng cười rồi chấp nhận. Đồng thời, nhà Vua cũng xuống lệnh triệu Võ An Quân kéo quân trở về nước.

Bạch Khởi chiến thắng liên tiếp, đang muốn xua quân tấn công Hàm Đan, bỗng được lệnh vua bảo kéo quân trở về, biết đây là mưu kế của Phạm Thư nên hết sức tức giận. Từ đó giữa Bạch Khởi và Phạm thư có sự oán ghét nhau.

Kể từ ngày Bạch Khởi kéo quân trở về nước, trong lòng luôn luôn ấm ức, thường nói với mọi người chung quanh: “Triệu sau khi đại bại tại Trường Bình, vua tôi họ trong thành Hàm Đan hoang mang đến cực độ. Nếu thừa thắng kéo quân tấn công, thì không quá một tháng sẽ hạ được thành này. Chỉ đáng tiếc là Ứng Hầu (Phạm Thư) không biết thời thế, nên chủ trương rút quân về, để mất một cơ hội quý nghìn vàng!”

Tần Chiêu Tương Vương nghe vậy cảm thấy hối hận, nói: “Bạch Khởi biết Hàm Đan có thể hạ được, thế tại sao lại không tâu lên sớm hơn?”

Nhà vua bèn xuống lệnh cho Bạch Khởi làm tướng, muốn ông kéo quân đi đánh Triệu lần thứ hai. Bạch Khởi lúc đó đang bệnh, không thể nhận lệnh vua được. Vua Tần bèn cử hai Đại tướng Vương Hột và Vương Lăng dẫn mười vạn quân Tần đi phạt Triệu, bao vây kinh thành Hàm Đan.

Triệu vương đã học được bài học trước kia, nên lại sử dụng Liêm Pha làm tướng để chống lại quân Tần. Liêm Pha phòng thủ rất nghiêm nhặt, lại tự bỏ gia sản của mình để chiêu mộ đội cảm từ, luôn thừa lúc đêm tối ra ngoài thành đánh lén vào doanh trại của quân Tần, khiến quân Tần nhiều phen bị bại trận.

Ít lâu sau Bạch Khởi khỏi bệnh. Tần Chiêu Tương Vương muốn cử ông đi thay Vương Lăng.

Bạch Khởi tâu: “Hàm Đan bây giờ không dễ chi hạ được. Trước đây sau khi quân Triệu đại bại ở Trường Bình, vua tôi họ đều hoang mang, nếu thừa thắng kéo tới tấn công ngay, trong khi sự phòng thủ của họ có nhiều sơ hở, sức chống trả yếu ớt, thì chẳng bao lâu ta sẽ lấy được Hàm Đan. Nay sau hơn hai năm, họ đã có chuẩn bị đầy đủ, lại sử dụng lão tướng Liêm Pha là người có nhiều mưu lược, không như Triệu Quát. Hơn nữa, chư hầu thấy Tần vừa bằng lòng để Triệu cắt đất cầu hòa, nay bỗng lại kéo quân tấn công, sẽ cho Tần là nước không giữ chữ tín, cùng nhau “hợp tung” để giúp Triệu thì hy vọng chiến thắng của nước Tần rất là mong manh.”

Tần Vương không nghe, buộc Bạch Khởi phải thi hành theo lệnh, nhưng Bạch Khởi kiên quyết từ chối. Tần Vương lại sai Phạm Thư đi mời Bạch Khởi. Nhưng do Vô Lăng Quân Bạch Khởi căm tức Phạm Thư đã ngăn cản không cho mình lập công trước kia, nên lấy cớ còn bệnh không ra tiếp kiến.

Tần Chiêu Tương Vương hỏi Phạm Thư: “Võ An Quân có bệnh thật chăng?”

Phạm Thư đáp: “Không thể biết, nhưng việc ông ấy cương quyết từ chối không chịu làm tướng là điều đã khẳng định rồi.”

Tần Chiêu Tương Vương tức giận, nói: “Bạch Khởi cho rằng nước Tần không còn tướng giỏi, ngoài ông ta thì không còn ai hơn. Cuộc chiến thắng tại Trường Bình trước đây, ban đầu là do Vương Hột chỉ huy, vậy Vương Hột chả lẽ không bằng ông ta sao?”

Thế là Tần Chiêu Tương Vương phái mười vạn quân sĩ, cử Vương Hột chỉ huy, thay thế cho Vương Lăng.

Vương Hột kéo quân bao vây Thành Hàm Đan suốt năm tháng trời mà không hạ được.

Bạch Khởi nghe tin bèn nói với những người đến thăm: “Tôi đoán trước là Hàm Đan không dễ chi hạ được. Thế mà Tần Vương không chịu nghe theo tôi. Nay thì như thế nào rồi?”

Trong số người tới thăm có người quan hệ mật thiết với Phạm Thư, bèn tiết lộ những lời nói đó. Phạm Thư lại đi tâu với Tần Chiêu Tương Vương, quyết cử Bạch Khởi ra làm đại tướng. Tần Chiêu Tương Vương cũng tán thành. Không ngờ Bạch Khởi lại giả bệnh từ chối. Tần Chiêu Tương Vương cả giận, xuống lệnh xóa bỏ tước hiệu và lấy lại đất phong của Bạch Khởi, giáng chức xuống làm binh sĩ thường, và đuổi về Âm Mật (nay là Cố Nguyên, thuộc Tỉnh Ninh Hạ), buộc phải tức khắc rời khỏi Hàm Dương không được chậm trễ.

Bạch Khởi nhận được lệnh vua, than rằng: “Phạm Lãi có nói: ‘Thỏ rừng chết thì chó săn bị làm thịt”. Ta đã tấn công chiếm được hơn 70 cho nước Tần, thế mà nay đành chịu làm thịt!”

Bạch Khởi liền rời khỏi Hàm Dương theo cửa phía tây, khi đi tới Đỗ Bưu thì tạm nghỉ để chờ hành lý.

Phạm Thư lại tâu với Tần Chiêu Tương Vương: “Bạch Khởi ra đi, trong lòng rất bực tức, nên có lời oán trách. Việc ông ấy cáo bệnh là không thực. E rằng ông ta sẽ đến nước khác làm tướng, gây tai vạ cho nước Tần.”

Tần Chiêu Tương Vương giật mình, bèn ban một thanh kiếm bén và xuống lệnh cho Bạch Khởi phải tự xử.

Khi sứ giả tới Đỗ Bưu truyền lệnh của Tân Vương. Võ An Quân cầm thanh kiếm trong tay, cất tiếng than: “Ta có tội gì với trời, mà cuộc đời của ta phải kết thúc như thế này đây?” Dừng lại một lúc, ông cất tiếng than tiếp: “Cố nhiên là ta đáng chết, vì trong trận đánh Trường Bình, hơn 20 vạn quân Triệu đầu hàng, ta đã dối gạt họ để giết sạch trong một đêm. Họ có tội tình gì chứ? Như thế, tội ta đáng chết nghìn lần là phải rồi!”

Nói dứt lời, Bạch Khởi dùng gươm tự sát. Một đời danh tướng lại kết thúc mạng sống của mình như thế. Ông đã trở thành vật hy sinh trong sự khuynh đảo nhau giữa những người có quyền thế trong giai cấp thống trị. Cái chết của Bạch Khởi, làm cho nước Tần mất đi một vị tướng lãnh kiệt xuất. Điều đó đối với nước Tần đang trên đà đi tới sự nghiệp thống nhất vĩ đại, quả là một sự tổn thất lớn lao. Phạm Thư đã dùng mưu trí để giành chiến thắng ở Trường Bình, bằng cách dùng kế phản gián để Triệu phải đổi tiếng chỉ huy, tạo điều kiện cho quân Tần đắc thắng. Đó là biết người biết ta, nhìn xa thấy rộng. Nhưng ông lại tin lời nói cua Tô Đại, ganh ghét Bạch Khởi, hại ngầm một vị lương tướng, để trở thành một tội nhân trong lịch sử của triều đại nhà Tần, tự mình bôi lem cả cuộc đời mình mà không bao giờ tẩy xóa được.

Phạm Thư mắc lỗi

Năm 257 tCN, sau khi Bạch Khởi chết, Phạm Thư tiến cứ bạn thân là Trịnh An Bình (lúc trước giúp che chở khi Phạm Thư bị Ngụy Tề hại như nêu ở đoạn trên) lên làm tướng tấn công nước Triệu, nhưng bị Bình Nguyên Quân của nước Triệu đánh bại. Trịnh An Bình dẫn hai vạn binh sĩ chạy sang đầu hàng Triệu. Căn cứ theo pháp luật đương thời của nước Tần, Phạm Thư bị tội liên lụy và sẽ bị tru di tam tộc. Nhưng Tần Chiêu Tương Vương nghĩ ông là người từng có công lớn nên tha thứ, chẳng những không trị tội mà lại còn ban cho nhiều thức ăn để an ủi.

Thế nhưng, sang năm 255 tCN, một người thân tín khác của Phạm Thư là Vương Kê (lúc trước giúp mang Phạm Thư về Tần như nêu ở đoạn trên), đang làm Thái thú Hà Đông nhưng tư thông với chư hầu, chuyện bị bể và bị xử tử. Phạm Thư dù dính líu đến chuyện khả nghi đó nhưng Tần Chiêu Tương Vương vẫn không bắt tội.

Dù vậy, trong nhiều dịp lâm triều, nhà Vua ra triều thường thở dài. Ứng Hầu tâu: “Thần nghe nói: vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”. Nay đại vương ra triều lo lắng, thần xin hỏi thần có tội gì.

Tần Chiêu Tương Vương trả lời: “Ta nghe nói kiếm của nước Sở sắc mà việc ca múa lại kém. Phàm kiếm mà sắc thì quân sĩ dũng cảm, ca múa mà kém thì suy nghĩ sâu xa. Họ suy xa nghĩ rộng, có nhiều dũng sĩ, ta sợ nước Sở sẽ mưu lấy nước Tẩn. Phàm vật mà không chuẩn bị sẵn thì không thể ứng phó được trong lúc bất ngờ. Nay Võ An Quân Bạch Khởi đã chết, Trịnh An Bình lại phản bội, còn Vương Kê thì tư thông với địch quốc. Bên ngoài cường địch quá nhiều, bên trong lại thiếu tướng giỏi, khiến quả nhân cảm thấy hết sức lo buồn.”

Phạm Thư nghe lời nói có ngụ ý sâu xa đó, tự biết mình đã bị thất sủng, địa vị đang bấp bênh, nên vừa xấu hổ lại vừa sợ, bắt buộc phải nghĩ đến kế rút lui. Tuy nhiên, Phạm Thư vẫn không muốn buông bỏ chức vụ, quyền thế và cuộc sống phú quý vinh hoa. Do vậy, ông chỉ lấy cớ bệnh để tránh né, thường không đi họp triều, nhằm kéo dài thời gian để suy tính.

Thái Trạch thuyết Phạm Thư

Lúc bấy giờ, có người nước Yên là Thái Trạch đến nước Tần. Người này có tướng mạo rất đặc biệt, trong túi không một trong xu, nhưng tài hoa xuất chúng. Trong thời Chiến Quốc, chiến loạn diễn ra liên miên, Thái Trạch học được phép biện luận của những nhà du thuyết, có ý định đến các nước chư hầu để tìm người trọng dụng. Thái Trạch đi nhiều nước lớn nhỏ, nhưng không có vị vua nào tán thưởng ông ta. Ông sang Triệu bị Triệu đuổi, sang Hàn, Ngụy trên đường đi bị người ta cướp mất nồi, chảo. Giữa lúc nghèo khổ cùng cực, bỗng ông ta được biết Ứng Hầu ở nước Tần là Phạm Thư, trước kia có trọng dụng hai người, nay cả hai đều bị phạm tội. Ông ta nghĩ thầm: “Đấy có lẽ là thời cơ may mắn đã tới với ta.” Bèn hối hả thu thập hành trang, đi bất kể ngày đêm để tới nước Tần.

Khì Thái Trạch đến kinh đô của nước Tần là Hàm Dương, ông ta nhờ nhiều người phao tin để khích cho Phạm Tuy gặp mình: “Có người khách nước Yên tên là Thái Trạch, là biện sĩ kiến thức siêu việt, biện luận tài giỏi, khôn ngoan khác thường, anh ta nếu vào yết kiến Vua Tần thì thế nào cũng làm ngài Tướng quốc nguy khốn và giật mất địa vị của ngài.”.

Những lời đồn đại đó nhanh chóng thấu tai Phạm Thư. Phạm Thư hết sức tức giận, nghĩ bụng: “Chuyện Tam Hoàng Ngũ Đế, học thuyết của Bách gia chư tử ta đã học thuộc làu. Hầu hết các nhà biện luận đã bị ta biện bác đến thua một phép. Vậy, một gã Thái Trạch kia làm gì được ta mà định cướp lấy ngôi vị Tướng quốc của ta chứ? Thằng bé này không biết tự lượng sức, ăn nói ngông cuồng, vậy ta phải gặp nó để xem nó có tài ba tới đâu.” Sau khi quyết định, Phạm Thư phái người đi gọi Thái Trạch đến, với ý định sẽ biện luận tay đôi với Thái Trạch cho hắn biết mặt.

Cuộc đối đáp giữa Phạm Thư và Thái Trạch thể hiện thuật hùng biện vào hàng hay nhất thời Chiến Quốc và đáng cho người ta nghiên cứu.

Thái Trạch vào, đáng lẽ ông là dân thường phải quỳ lạy Phạm Thư là thừa tướng, nhưng ông chỉ đứng vái chào. Phạm Tuy vốn đã không bằng lòng, đến khi tiếp kiến lại thấy y ngạo mạn, bèn trách: “Ông thường phao tin rằng muốn thay ta làm thừa tướng nước Tần, có phải không?”

Thái Trạch bình tĩnh trả lời: “Bẩm, có chuyện đó.”

Phạm Tuy nói: “Xin cho nghe thuyết của ông như thế nào.”

Thái Trạch thấy đối phương ăn nói thiếu khiêm tốn, nên cũng lên giọng biếm nhẻ thẳng thừng, không khách sáo: “Kìa! Tại sao ngài hiểu vấn đề chậm chạp đến thế? Mùa xuân thì cày ruộng, mùa hè thì cuốc đất, mùa thu thì thu hoạch, mùa đông thì cất giữ. Trải qua bốn mùa là đã hoàn thành sứ mệnh, nên tất cả bốn mùa đều tự nhiên rời đi. Đời người cũng vậy, thân thể khỏe mạnh, tay chân linh hoạt, đầu óc tỉnh táo, tai không điếc, mắt không hoa, chẳng phải là điều mà người đời mong muốn hay sao?

Phạm Thư chưa hiểu đối phương muốn nói gì, chỉ lên tiếng đáp: “Đúng vậy.”

Thái Trạch lại nói: “Một người có bản tính nhân nghĩa, biết tôn đạo và biết bố đức, thực hiện được lý tưởng của mình, người trong thiên hạ do chịu ân mà ai cũng vui vẻ, ai cũng kính yêu, nên bằng lòng tôn người đó lên làm quốc vương của mình. Như vậy, chẳng phải là điều hy vọng của những người làm nghề này như chúng ta đây hay sao?”

Phạm Thư lại đáp: “Đúng vậy.”

Thái Trạch nói: “Ngồi trên địa vị của người phú quý hiển vinh, xử lý vạn vật, đâu theo nề nếp đó, hoàn toàn có trật tự, mọi nơi đều yên bề. Về mặt tuổi thọ, có thể hưởng được hết tuổi trời cho, mà không chết bất đắc kỳ tử, giúp thiên hạ vĩnh viễn kế thừa đạo thống của ông cha, luôn giữ gìn sự nghiệp của ông cha truyền tận hậu thế. Vừa được tên tuổi tốt đẹp, lại vừa có thành tích trị quốc cụ thể, ân trạch ban ra rộng rãi, đời đời đều khen tặng, không bao giờ gián đoạn. Như vậy, chẳng phải trời cao đối với người biết tôn đạo, đã ban cho những điều tốt đẹp, sự cát tường và thiện sự, mà thánh nhân từng nói đấy sao?”

Phạm Thư trầm ngâm một lúc lâu, đáp: “Đúng vậy!”

Tiếp đó, Thái Trạch bắt đâu chuyển đề tài, nói: “Còn những người như Công Tôn Ưởng của nước Tần, Ngô Khởi của nước Sở, Đại phu Văn Chủng của nước Việt, thì kết cục của họ có được viên mãn hay không?”

Phạm Thư đoán biết Thái Trạch muốn dùng ba nhân vật này để nói bóng gió về mình khiến lập luận của mình bị rơi vào thế bí, nên cố ý không trả lời theo hướng của Thái Trạch, mà đáp:

“  Cái đó thì có chi lại không được. Công Tôn Ưởng phụng sự cho Tần Hiếu Công, từng dốc hết lòng trung thành của mình, luôn chí công vô tư, trấn áp bọn gian tà, thưởng phạt phân minh, phơi gan trải mật, không biết sợ gian nguy. Ông ấy đoạt quân đội của Ngụy Công tử Mão, bình định được giang sơn nước Tần, ra sức tạo phước cho bá tánh, cuối cùng đánh bắt được kẻ thù chung quanh, mở rộng cương thổ cho nước Tần.

“  Ngô Khởi phụng sự cho Sở Điệu Vương, nghiêm cấm mọi người không được lấy chuyện tư làm hại chuyện công, dựa vào sự gièm pha để hãm hại người trung trực, khi nghe kiến nghị thì không để ý tới những người cấu kết bè đảng, khi bàn quyết sách thì không nghe những kẻ chỉ biết dua nịnh, làm việc không sợ gian nan nguy hiểm, thi hành việc nghĩa không tránh những khó khăn, để cho nước Sở có thể xưng bá, gặp bất cứ chuyện hiểm nguy gì ông ấy cũng không sợ.

“  Còn Đại phu Văn Chủng phụng sự cho Việt Vương Câu Tiễn, cho dù nhà Vua gặp phải một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm, ông ấy vẫn một mực trung thành, không dám chểnh mảng. Nhà Vua cho dù đang đứng trước sự diệt vong, ông ấy vẫn đem toàn bộ tài năng của mình để xoay xở, không hề bỏ đi. Đứng trước sự thành công ông ấy không khoe khoang, đứng trước sự giàu sang ông ấy không kiêu ngạo.

“  Như ba người đó đúng là những người đã thể hiện nghĩa và trung đến mức cực điểm. Cho nên người quân tử có thể vì đại nghĩa mà chết, xem chết như về, thà là chết một cách quang vinh, chứ không chịu sống trong sự khuất phục nhục nhã. Người có học ra làm việc chính trị, là những người đã sẵn ý chí liều chết để thành danh, vì chuyện nghĩa thì dù chết cũng không ân hận. Như vậy, thì có chi gọi là không được.”

Thái Trạch thấy Phạm Thư không mắc bẫy mình, bèn tiếp tục tấn công đối phương:

“  Có vua thánh triết, lại có đại thần hiền minh, đấy là cái phước của thiên hạ. Quốc vương sáng suốt, hiểu biết nhiều, đại thần ngay thẳng, đấy là cái phúc của quốc gia. Cha nhơn từ, con cái hiếu thảo, chồng thành thực, vợ trung trinh, đấy là cái phước của gia đình. Tỷ Can dốc hết lòng trung thành của mình, nhưng vẫn không cứu được sự diệt vong của Nhà Ân Thương. Ngũ Tử Tư là người trí dũng hơn người, thế mà vẫn không gìn giữ được vận nước của Nhà Ngu. Thân Sinh Khác biết giữ hiếu đạo, nhưng Tấn Quốc vẫn xảy ra nội loạn.

” Những người đó đều là trung thần hiếu tử cả, thế mà quốc gia của họ vẫn không tránh khỏi hỗn loạn, suy vong. Đấy là tại sao vậy? Đấy là do không có vua anh minh, cũng như những bậc làm cha hiền lương để nghe theo lời khuyên ngăn của lương thần hiếu tử. Cho nên người trong thiên hạ xem hành vi của nhà vua họ là một điều sỉ nhục, đồng thời, tỏ ra tiếc thương cho những bậc lương thần đó.

“  Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi, Đại phu Văn Chủng đều là những bề tôi làm hoàn toàn đúng, nhưng vua của họ thì sai. Do vậy, người trên đời đều phê bình ba người đó tuy dốc hết sức lực để giúp nước nhưng lại không mang đến cho nước nhà những điều tốt đẹp nào. Chả lẽ họ hy vọng đời mình sẽ gặp phải những kết cục ngang trái thế sao? Nếu họ dù có giành được cái tiếng trung hiếu sau khi đã bị hại, thì Vi Tử cũng không thể gọi được là người nhân, Khổng Tử cũng không thể được xem là ông thánh, Quản Trọng không thể được xem là một con người vĩ đại. Họ tạo dựng nên sự nghiệp, chả lẽ lại không muốn được triệt để thực hiện hay sao? Vừa giữ được mạng sống cho mình, lại vừa giành được tiếng tốt, đấy là điều tốt nhất. Tuy có được tiếng tốt để mọi người noi gương nhưng bản thân mình lại gặp điều bất hạnh, thì đó là điều kém hơn. Còn người tên tuổi bị người ta nguyền rửa, nhưng gìn giữ được mạng sống cho mình, thì đó là người được xếp vào hạng bét!”

Phạm Thư thấy Thái Trạch nói thấu tình đạt lý, nên không thể không tỏ ra tán đồng. Bầu không khí trong nhà đã xuất hiện một sự hòa hợp, đầy tình bạn.

Thái Trạch dừng lại trong chốc lát, rồi lại nói tiếp: “Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi, Đại phu Văn Chủng, đều là bề tôi cả. Họ đã dốc hết lòng trung thành, lo xây dựng sự nghiệp cho vua, tất nhiên đều là người mà ngài cảm thấy ngưỡng mộ rồi. Nhưng riêng Hoằng Yêu phụng sự cho Châu Văn Vương, Châu Công phụ tá cho Thành Vương, chả lẽ lại không dốc hết lòng trung thành hay sao? Nếu đứng về mối quan hệ vua tôi mà bình luận, thì Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi, Đại phu Văn Chủng, so với Hoằng Yêu, Châu Công, người nào khiến cho ta ngưỡng mộ hơn?

Phạm Thư đáp: “Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi, Đại phu Văn Chủng đều không bì kịp họ.”

Thái Trạch nói: “Thế thì vua của ngài về các mặt như lòng nhân ái đối với trung lương, cư xử khoan dung đối với lão thần, thân mật không hề sơ sót đối với người hiền trí và người có đạo nghĩa, còn đối với các công thần thì không bao giờ làm trái với tín nghĩa, vậy thì so với Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, Việt Vương Câu Tiễn ai tốt hơn?”

Phạm Thư đáp: “Tôi không biết nên trả lời ra sao mới phải.”

Thái Trạch nói: “Hiện nay vua của Tần Quốc, đối với các mặt như thân cận với trung thần thì không hơn được Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, và Việt Vương Câu Tiển. Thế thì tiên sinh đứng về các mặt như hiến trí mưu, trừ nguy nan, sửa sang quốc chính, dẹp họa loạn, khai hoang trồng tỉa, xúc tiến cho nước giàu binh mạnh, cũng như đề cao địa vị của quân vương và nước nhà, làm cho tên tuổi của quốc vương truyền xa khắp cả nước, và truyền ra đến cả nước ngoài, ai ai cũng biết, vậy tiên sinh so với Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi và Đại phu Văn Chủng thì sao?”

Phạm Thư đáp: “Không bằng.”

Thái Trạch nói:

“  Hiện nay vua về mặt thân cận với trung thần và không quên lão thần, so với Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, và Câu Tiễn đều không bằng. Trong khi tiên sinh đứng về mặt xây dựng sự nghiệp cho nước Tần cũng như tranh thủ sự thân cận và tín nhiệm của vua, vẫn không bằng Công Tôn Ưởng, Ngô Khởi và Đại phu Văn Chủng. Thế mà ngài lại ngồi trên địa vị tôn quý, hưởng được bổng lộc rất to, sự giàu sang của cá nhân vượt hơn hẳn ba người trên. Vậy mà đến nay ngài vẫn chưa có ý nghĩ kịp thời rút lui, cho nên tôi e rằng tai họa sẽ giáng xuống ngài còn ghê gớm hơn cả ba người trên nữa. Tôi không khỏi lo lắng cho ngài đấy! Tục ngữ có nói: ‘Mặt trời giữa đỉnh đầu sẽ dần lặn xuống phía tây; Mặt trăng đến ngày rằm tròn trịa sẽ khuyết dần’. Sự vật khi phát triển đến cực điểm thì suy thoái. Đó là quy luật của trời đất. Việc tiến lên hay thối lui, việc thêm nhiều hay bớt lại, đều phải căn cứ theo sự phát triển của tình thế mà có sự thay đổi tương ứng. Đó là nguyên tắc mà thánh nhân bao giờ cũng gìn giữ. Cho nên có thể nói: ‘Quốc gia cai trị có phương pháp thì người ta vui lòng ra làm quan, cai trị không có phương pháp thì người ta sẽ rút lui đi quy ẩn’. Thánh nhân cũng nói: ‘Rồng bay trên trời sẽ có lợi cho việc phụ tá quân vương’. Lại nói: ‘Nếu phú quý không hợp đạo nghĩa thì như là phù vân, không đáng nghĩ tới’.

“  Hiện nay, những việc oán cừu trước kia của ngài đã được trả xong. Những người có ơn đối với ngài đã được báo đáp, như vậy, tức là dục vọng đã đạt được rồi. Thế mà còn chưa chịu kịp thời thay đổi ý định. Theo tôi; như vậy là không được. Loài chim trả, loài chim hồng cốc, loài tê giác, loài voi to, nếu xét về hoàn cảnh sinh sống của chúng, thì không dễ gì bị chết. Nhưng sở dĩ chúng bị chết, là do bị sự mê hoặc của những miếng mồi ngon. Với trí tuệ của Tô Tần, của Trí Bá, thì đâu phải không tránh được sự uy hiếp, sỉ nhục, và chết chóc. Thế mà họ vẫn gặp phải tai họa sát thân. Đó là vì họ bị lợi lộc làm mờ mắt, tham lam mà không tự tiết chế. Do vậy, thánh nhân quy định ra lễ nghĩa, là để tiết chế dục vọng. Lấy tiền tài của dân, nhất định phải có mức độ. Sử dụng sức lực của dân, cũng không thể làm trái với thời tiết, và phải dừng lại khi thấy đã thích hợp. Dục vọng của thánh nhân không bao giờ thái quá, hành sự không bao giờ kiêu căng, mà thường thích ứng với quy luật khách quan. Được như vậy thì địa vị thống trị của mình sẽ truyền nối đời đời, không bao giờ gián đoạn.

“  Xưa kia Tề Hoàn Công chín lần hội họp liên minh với các chư hầu, giữ yên thiên hạ, nhưng khi bắt đầu cuộc họp tại Quỳ Khưu thì Hoàn Công lại bộc lộ thái độ kiêu căng tự mãn. Do vậy, chín nước chư hầu kia liền rời bỏ ông ta ngay. Quân đội của Ngô Vương Phù Sai có thể vô địch trong thiên hạ, thế mà nhà vua quá ỷ vào ưu thế đó của mình, miệt thị các nước chư hầu, xâm lăng Tề, Tấn, cho nên gặp phải cái họa sát thân, mất nước. Hạ Dục [dũng sĩ của nước Vệ thời nhà Châu, có sức mạnh năng được nghìn cân], và Thái Sử Kiểu [người Tề thời Chiến Quốc, con gái là Tương Vương Hậu của nước Tề] cả đời thét ra lửa, oai khiếp cả ba quân, thế mà cuối cùng lại bị một tên tầm thường không có tiếng tăm giết chết. Đấy là do họ lúc ở vào địa vị cao cả nhất, thì không giữ được đạo nghĩa, không biết khiêm tốn với mọi người, không biết tiết kiệm trong sinh hoạt, nên mới tạo ra cái bi kịch đó!

“  Công Tôn Ưởng chế định pháp lệnh cho Tần Hiếu Công, ngăn chặn nguồn gốc sản sinh gian tà, người có công được thưởng chức vụ xứng đáng, người có tội bị trừng phạt đúng tội. Ông cũng thống nhất cân, đong, đo, đếm, điều tiết tiền bạc để sự lưu thông cân đối, phá bỏ những ranh giới cũ về mặt địa lý, đất đai, giúp cho bá tánh thống nhất được tập tục, giúp cho sức dân được nghỉ ngơi, lại khuyến khích nghề nông, khẩn hoang canh tác, nhà nào có hai người đàn ông đã thành niên thì được ở riêng. Ngoại trừ làm ruộng tích lũy lúa thóc, họ còn luyện tập tác chiến. Do vậy, khi có chiến tranh thì họ có thể mở rộng lãnh thổ, khi chiến tranh chấm dứt thì họ lo việc sản xuất, đẩy nhanh cho đất nước giàu mạnh. Dưới sự cai trị của Công Tôn Ưởng, nước Tần trở thành vô địch, xưng hùng trong các chư hầu. Nhưng khi công lao vĩ đại của ông vừa thành công, thì bị tội xé xác.

“  Bạch Khởi chỉ huy mấy vạn quân cùng tác chiến với Sở. Chỉ trong một trận đánh chiếm dược vùng Yên, Sính, và hỏa thiêu Di Lăng. Qua trận thứ hai nuốt chửng được Thục Quận và Hán Trung ở phía Nam. Đồng thời, ông cũng vượt qua Hàn và Ngụy để đánh một nước mạnh khác là Triệu, đánh bại con trai của Mã Phục là Triệu Quát, khiến 40 vạn binh mả của nước Triệu chết sạch trong Trận Trường Bình. Tiếng ông thét như sấm nổ, ngoài trận địa máu kẻ thù chảy thành sông. Kế đó, quân Tần lại kéo tới bao vây Hàm Đan, khiến cho nước Triệu phải chịu một sự uy hiếp hết sức nặng nề. Bạch Khởi xây dựng đế nghiệp cho nước Tần, phát huy được tác dụng là người đặt nền tảng. Nước Sở và nước Triệu nguyên là hai cường quốc, thù địch đối đầu sống chết với nước Tần. Từ đó trở đi, nước Sở và nước Triệu đều khiếp sợ nước Tần, không còn đám tranh giành ngôi vị với nước Tần nữa. Tình thế có lợi đó là do Bạch Khởi tạo nên. Ông ấy chinh phục hơn 40 thành thị. Nhưng công lao vĩ đại của ông vừa mới hoàn thành, thì Tần Vương lại ban cho ông một thanh bảo kiếm, ép ông phải tự sát tại Đỗ Bưu.

“  Ngô Khởi chế định pháp lệnh cho Sở Điệu Vương, làm yếu thế lực của các đại thần, truất bỏ những quan viên bất tài, dẹp bớt những quan chức chưa cần thiết, chận đứng những lời xin xỏ của kẻ quyền quý, thống nhất tập tục của nước Sở, cấm chỉ bọn du thủ du thực suốt ngày chỉ biết ăn chơi, chọn lựa những binh sĩ vừa biết cày ruộng vừa biết tác chiến, để đi chinh phục các nước Dương, Việt ở phía Nam, thôn tính các nước Trần, Thái ở phía Bắc, phá vỡ liên hoành, xóa bỏ hợp tung, khiến những người du thuyết không sao mở miệng được. Ông còn ngăn cấm việc kết bè kết đảng để mưu cầu tư lợi, ổn định việc chính sự của nước Sở, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ oai khiếp tất cả chư hầu. Nhưng, đại công vừa mới hoàn thành, Ngô Khởi đã bị xử phân thây! [Xem: Ngô Khởi]

“  Đại phu Văn Chủng nghĩ nhiều mưu kế sâu xa cho Việt Vương Câu Tiễn, giải tỏa được sự bao vây cực kỳ nguy hiểm của Ngô Quân tại Cối Kê. Trong khi mất nước thì biết nghĩ cách tìm một con đường sống, trong khi bị nhục thì biết mưu đồ cách tái sinh, thu gom lưu dân, củng cố thành ấp, khai khẩn đất hoang để làm ruộng, hướng dẫn bá tánh bốn phương, tập trung nhân lực bên ngoài triều đình cũng như trong dân gian, phụ tá cho Câu Tiễn rửa nhục báo thù, kết cục đã đánh bại được Ngô Quốc, giúp nước Việt xưng bá trong thiên hạ. Công lao hiển hách của Đại phu Văn Chủng sau khi hoàn thành, thì Việt Vương Câu Tiễn bỏ rơi ông, và xử tử ông. [Xem: Văn Chủng]

“  Bốn người trên do khi thành công mà không chịu rút lui, nên mới gặp thảm họa như vậy. Kết cục bất hạnh đó, như người đời thường nói, chỉ biết vươn ra là không biết co lại, chỉ biết tiến mà không biết lùi. Phạm Lãi là người hiểu rõ cái lý lẽ đó, nên sau khi thành công, ông đã rời khỏi ngay quan trường, đi làm nghề buôn để trở thành giàu có với cái tên Đào Chu Công mà người đời thường khen ngợi, sống tiêu diêu tự tại, hưởng hết tuổi thọ của trời ban.

“  Ngài không thấy người ta ném xúc xắc đó sao? Có người muốn đặt tụ to để giành lấy phần toàn thắng, nhưng có người lại đặt tụ ké, để ăn chia thành quả với người thắng lợi. Việc đó ngài đều hiểu rất rõ. Hiện nay ngài đã là Tướng quốc của nước Tần, sách hoạch bao nhiêu mưu kế cho nhà vua, ngay đến ngôi nhà này ngài cũng không bước ra khỏi, ngay đến chiếc chiếu ngồi này ngài cũng không rời đi, thế mà ngài có thể trị cho các chư hầu phải khuất phục, chiếm đất Tam Xuyên để củng cố Nghi Dương, chiếm những con đường mòn hiểm yếu để chận đứng đường trở về của Phạm Thị và Trung Hành Thị tại núi Thái Hành, khiến sáu nước không thể hợp tung, lại sửa sang hằng nghìn dặm sạn đạo, đi thông đến Thục Quận và Hán Trung, khiến người trong thiên hạ đều sợ hãi nước Tần.

“  Giờ đây, mục đích của nước Tần đã được hoàn toàn thực hiện, công lao của ngài đã tiến lên mức độ cao tột nhất. Đây chính là lúc ăn chia thành quả với kẻ thắng lợi là nước Tần. Thế mà ngài còn chưa kịp thời rút lui. Như vậy, cái đang chờ ngài chỉ còn là tai vạ như Công Tôn Ưởng, Bạch Khởi, Ngô Khởi và Đại Phu Văn Chủng đã nhận lãnh trước đây. Tôi nghe nói: ‘Dùng nước soi mặt thì có thể thấy được diện mạo của mình, dùng người soi mặt thì có thể thấy được chuyện cát hung’. Kinh Thư nói: ‘Ở trên sự thành công thì không thể ngồi lâu được’. Nếu một khi tai họa như bốn người trên ập đến, thì ngài sẽ đối phó ra sao?

“  Tại sao bây giờ ngài không trao trả ấn Tướng quốc, nhường chức vụ cho một người hiền tài khác, rút lui ra khỏi quan trường, tìm đến một nơi núi non có cảnh trí xinh đẹp nào đó, để sống một cuộc đời ẩn cư. Như vậy ngài sẽ giành được tiếng thơm là người thanh liêm như Bá Di, vĩnh viễn là Ứng Hầu, đời này truyền tụng qua đời khác, ai ai cũng tôn sùng. Đồng thời, làm như vậy ngài cũng sẽ giành được lời khen là người khiêm nhượng như Hứa Do, Diên Lăng Quý Tử, cũng như giành được tuổi thọ lâu dài như Vương Kiều, Xích Tùng Tử mà trong truyền thuyết đã mô tả như những bậc tiên. Làm như vậy nếu so với tai vạ, thì cái nào thích hợp hơn? Ngài chuẩn bị sẽ đi con đường nào? Ngài ức chế bản thân mình không muốn rời đi, do dự thiếu quyết đoán, thì tai họa của bốn người nói trên sẽ ập tới với ngài đấy! Kinh Dịch nói: ‘Rồng bay cao sẽ có chuyện đáng hối’. Đó chính là sự nguy hại do có thể lên mà không thể xuống, có thể đưa ra mà không thể thu vào, có thể đi mà không thể trở lại. Vậy, xin ngài hãy suy xét cho kỹ đi”.

Nghe qua những lập luận trường thiên đại hải của Thái Trạch, Phạm Thư như vừa tỉnh cơn mộng, cất tiếng khen tặng liên tiếp, nói: “Đúng! Đúng! Tôi nghe nói: ‘Chạy theo thực hiện dục vọng mà không biết đủ sẽ mất đi dục vọng đó. Khi có đồ vật trong tay, nếu không biết đủ thì sẽ mất đi tất cả’. Những lời dạy của tiên sinh, Phạm Thư tôi sẽ nghe theo cả.”

Thế là Phạm Thư mời Thái Trạch ngồi vào bàn, khoản đãi đúng theo lễ tiết của một vị thượng khách.

Sau mấy hôm, nhân lúc họp triều, Phạm Thư tâu với Tần Chiêu Vương: “Có một vị khách vừa từ Sơn Đông đến, tên gọi Thái Trạch. Người này biết ăn nói, giỏi biện luận, am hiểu tất cả mọi việc về Tam Hoàng Ngũ Bá, lại am hiểu về những sự chuyển biến của thế tục. Quốc chính của nước Tần có thể phó thác cho ông ấy. Thần đã gặp nhiều người, nhưng chưa gặp ai bằng Thái Trạch, chính thần cũng không bằng ông ấy, cho nên thần cả gan tiến cử lên Đại vương.”

Tần Chiêu Tương Vương triệu kiến Thái Trạch, cùng luận bàn quốc sự với ông ta và thấy hết sức hợp ý, bèn cừ Thái Trạch làm Khách khanh. Phạm Thư nhân đó xin trả ấn từ quan. Tần Chiêu Tương Vương không đồng ý, nhất quyết bảo ông tiếp tục giữ nhiệm vụ Tướng quốc của nước Tần. Phạm Thư lấy cớ bị bệnh nặng để từ chối, nhưng thực ra là không muốn tuân theo mệnh lệnh của nhà Vua. Tần Chiêu Tương Vương đành phải bãi chức Tướng quốc của Phạm Thư. Và do mưu lược của Thái Trạch được tán thưởng, nên Tần Chiêu Tương Vương cử Thái Trạch thay thế chức Tướng quốc. Riêng Phạm Thư sau khi từ chức trở về đất phong của mình và ít lâu sau chết tại nơi ấy.

So sánh với Thương Ưởng, kết cục của Phạm Tuy viên mãn hơn vì ông biết tới lúc nên bước xuống và có đường lui.

Nhận định về Phạm Thư

Sở dĩ nước Tần có thể hoàn thành sự nghiệp lớn là thống nhất Trung Nguyên là do sự trưởng thành của cả chế độ chính trị. Đối với việc hoàn thiện chế độ trung ương tập quyền của nước Tần, Phạm Thư có công lao cực kỳ quan trọng.

Thực tiễn đã chứng minh, nếu so với “Tứ quý” của nhóm Ngụy Nhiễm, thì Phạm Thư về mặt chính trị giàu tinh thần tiến thủ hơn, tư tưởng nhạy bén hơn, tầm nhìn xa rộng hơn. Kể từ đó trở đi, các hoạt động về chính trị, quân sự, ngoại giao của nước Tần so với trước có sức sống hơn.

Sau này, Thừa tướng Lý Tư của Tần Thủy Hoàng trong bức thư “Can gián lệnh đuổi khách”, đánh giá thật cao công lao của Phạm Thư cống hiến cho nước Tần: “Chiêu Vương được Phạm Thư, củng cố việc triều chính, ngăn chặn những tệ đoan, thôn tính dần đất đai của các nước chư hầu, giúp cho Tần hoàn thành đế nghiệp”. Đúng thế, Phạm Thư giữ chức thừa tướng cho nước Tần ngoài mười năm, đối nội thực hành chủ trương “vững cội yếu cành”, tiến hành hàng loạt những cải cách để củng cố chế độ trung ương tập quyền. Đối ngoại cực lực đề xướng mưu lược ngoại giao “hòa hoãn xa, tấn công gần”.

Nói chung, Phạm Thư có đầu óc chiến lược xuất sắc nhưng đầu óc đó chỉ nhằm phục vụ cho tham vọng cá nhân chứ không phải lúc nào cũng cho lợi ích của nước Tần, và khi hai lĩnh vực này không tương hợp với nhau thì Phạm Thư ưu tiên cho tham vọng cá nhân. Đó là khi ông có những lời tấu gièm pha đầy ác ý với Tần Chiêu Tương Vương về Bạch Khởi, khiến cho danh tướng này bị Vua Tần ghét bỏ rồi cuối cùng bị ban cho cái chết đầy tức tưởi. Nếu Phạm Thư vun bồi vị thế của Bạch Khởi (như tạo nguồn lực hậu phương để hỗ trợ Bạch Khởi đánh thẳng đến nước Triệu sau chiến thắng Trường Bình) thì đáng lẽ sự nghiệp của nước Tần sẽ thăng tiến sớm hơn nữa.

Cũng cần nhắc đến thành quả đổi mới sâu rộng của Thương Ưởng (khoảng 390–338 tCN) dưới triều Tần Hiếu Công (trị vì 361–338 tCN), tạo tiền đề cho Phạm Thư tiếp tục củng cố vị thế nước Tần. Qua đó, người ta thấy Tần Hiếu Công và Tần Chiêu Tương Vương là hai vị vua kiệt xuất, có tầm nhìn chiến lược lâu dài và có óc thu dụng nhân tài với gốc gác thấp kém rồi đưa hai người không phải là người Tần chưa có thanh danh là Thương Ưởng và Phạm Thư lên vị trí cao nhất trong triều đình, tạo cơ hội cho hai người vạch kế sách cho nước Tần phát triển và mở rộng. Riêng Thương Ưởng giúp cải tổ nền tảng luật pháp được gọi là Tân lệnh, để lại di sản chính trị và kinh tế to tát cho nước Tần, giúp nước Tần phát triển vượt bậc.

Đặc biệt, cả Thương Ưởng và Phạm Thư có tài hùng biện vào hàng tài giỏi nhất trong lịch sử Trung Hoa. Những đoạn ghi chép cách họ hùng hồn thuyết phục vua Tần rất đáng cho người đời sau nghiên cứu. Nhờ sức thuyết phục của họ mà Nhà Tần đồng ý ra lệnh thực hiện những ý tưởng của họ. Cả Thương Ưởng và Phạm Thư giúp đặt nền móng vững chắc cho nước Tần về sau đánh thắng 6 nước, thống nhất Trung Nguyên vào năm 221 tCN.

Có lẽ Phạm Thư rút ra được hai bài học quý giá từ Thương Ưởng: (1) Không gây thù chuốc oán với hoàng tộc kẻo thiệt thân khi không còn được vua đương thời chống lưng; (2) Biết rút lui đúng lúc khi thời thế không còn thích hợp. Chính vì thế mà Phạm Thư có cuộc đời viên mãn hơn Thương Ưởng: mất khi dưỡng già chứ không bị phanh thây như Thương Ưởng.

Nguồn

Tang Du (2000); Sử ký của Tư Mã Thiên (91 tCN); Wikipedia_Phạm Thư. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Th%C6%B0

Xem thêm

Bạch Khởi, Ngô Khởi, Tần, Tần Chiêu Tương Vương, Thương Ưởng, Tín Lăng Quân.

Phần, Du

Tên hai loại cây thường trồng ở làng quê Trung Hoa. Người ta dùng từ này để chỉ quê hương.

Phần Lão

Phan Ðại Lâm thời Tống trong lịch sử Trung Hoa, tự là Phần Lão. Ðêm mưa làm thơ, có người đến thúc thuế, cụt hứng phải bỏ dỡ.

phận tóc da

Nói phận làm con phải biết giữ gìn thân thể do khí huyết cha mẹ bẩm sinh ra.

Hiếu kính: “Thân thể tóc da bẩm thụ ở cha mẹ, không dám làm hủy hoại, tổn thương, đó là sự bắt đầu của đạo hiếu.”

Cố sự thành ngữ khảo cũng viết: “Ðến như cả tóc da không thể hủy thương, Tăng Tử thường lấy việc giữ mình làm trọng.”

Phật biểu họ Hàn

Hàn Dũ (chữ Hán: 韓 愈; 768–824) dâng biểu can vua việc đón xương Phật. Bài biểu có đoạn: “Từ Hoàng đế cho đến Vua Hạ Vũ, Vua Thang, Vua Văn đều hưởng thọ lâu dài, trăm họ yên vui mà thuở ấy chưa có Phật. Ðến đời Minh Ðế nhà Hán mới có Phật pháp mà về sau cứ loạn lạc mãi, các vua trị vì chẳng được bao lâu. Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần cùng Nguyên Ngụy thờ Phật càng ngày càng thêm kính cẩn, thế mà viên đại rất chóng. Duy Vũ Ðế nhà Lương ở ngôi được 48 năm, 3 kỳ xả thân đi làm tăng, sau bị Hầu Cảnh bức phải chết đói: Thờ Phật, cầu phúc mà lại phải vạ. Lấy đó mà xem, thì Phật không nên tin cũng khá biết vậy.”

Phật Ðồ Trừng

Người Ấn Ðộ, đến Trung Hoa vào năm 310. Rất được nhà vua sùng vọng, cho cùng thăng điện khi lâm triều. Tương truyền, Phật Ðồ Trừng có phép lấy bút nuớc vẽ bùa đọc chú, trong bát nở ra hoa sen chói lọi.

Phật Mẫu Chuẩn Đề / Quán Thế Âm Chuẩn Đề

Phật Mẫu Chuẩn Đề hoặc Quán Thế Âm Chuẩn Đề là một trong sáu Quán Thế Âm của Phật giáo. Ngài là vị Bồ tát có thệ nguyện hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sinh nào trí tuệ kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh, thọ mạng ngắn ngủi…

Hiện thân của Chuẩn Đề có nhiều hình hài, nhưng ta thường thấy tượng Phật Chuẩn Đề ngồi kiết già trên tòa sen, có 18 hoặc 24 tay đều đeo vòng xuyến, mỗi tay đều cầm một loại khí cụ khác nhau biểu thị cho các tam muội gia.

  • Hai bàn tay phía trước kiết ấn Chuẩn Đề, như tướng đương lúc thuyết pháp.
  • Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm cái thí vô úy.
  • Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm.
  • Tay trái thứ tư cầm một bình nước cam lồ, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu.
  • Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả.
  • Tay trái thứ sáu cầm một xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa.
  • Tay trái thứ bảy cầm pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu.
  • Tay trái thứ tám cầm một  bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang.
  • Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát nhã Ba la mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài.

Những pháp khí mà Phật Mẫu Chuẩn Đề cầm đều mang ý nghĩa thâm sâu trong diệu dụng độ sinh của ngài. Các tay bên phải của Chuẩn Đề Bồ Tát nắm những khí vật hung dữ như móc câu, búa, chày…là những vật dụng để hàng phục chúng sinh cang cường, khiến họ quy hướng Chánh pháp. Còn các tay phía bên trái của ngài lại gồm các vật báu như hoa sen, dải lụa, xâu chuỗi… có nghĩa là sau khi đã hàng phục lại ban phát cho chúng sinh những thánh tài Phật pháp để họ có thể tu tập giải thoát.

Phật tích

Có nghĩa: dấu vết Phật để lại.

1/ Chùa Phật Tích: tọa lạc ở Thôn Phật Tích, Xã Phật Tích, Huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Xem Diệp Minh Tâm, Chùa ở Việt Nam – Bài 2 trong 3https://tamdiepblog.wordpress.com/2021/02/14/chua-o-viet-nam-bai-2-trong-3/

2/ Việt Nam có hai ngọn núi mang tên Phật Tích, một ở Tiên Sơn, Hà Bắc, một ở Quốc Oai, Hà Nội, đều có thờ Phật. Các thi nhân xưa hay làm thơ vịnh Núi Phật Tích ở Quốc Oai.

Phật xa, cha mẹ gần

Có một câu chuyện liên quan đến thành ngữ này.

Ngày xưa, Dương Phủ nhà nghèo, còn nhỏ đã phải sớm hôm cày cuốc lấy cái ăn, cái mặc để phụng dưỡng cha mẹ. Lớn lên, nghe nói bên đất Thục, có đức Võ Tề đại sư là nhà tu hành đắc đạo, ông xin phép song thân vắng nhà vài hôm để đến gặp đại sư. Đi được nửa đường, tình cờ gặp một vị lão tăng. Qua những câu chào hỏi, Lão tăng nói: “Được gặp Võ Tề, sao bằng được gặp Phật”. Dương Phủ hỏi: “Dạ thưa cụ, Phật ở đâu ạ?” Lão tăng đáp: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào khoác cái áo như thế này, sỏ đôi dép ngược như thế này, người ấy chính là Phật đấy!”

Dương Phủ cảm ơn, quay trở về, nhưng đi đường không gặp ai như thế cả. Về tới nhà thì đêm đã khuya, trời tối như mực, ông gọi cửa. Bà mẹ nghe tiếng con, mừng quá vội vàng khoác tấm chăn, sỏ ngược dép ra mở cửa đón con. Bỗng ông nhận ra hình dáng như Phật, mà lão tăng đã nói cho nghe. Bấy giờ ông chợt hiểu được thâm ý của lão tăng. Cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải mất công đi mộ Phật đâu xa cả.

Phi Liêm

Tức Thần gió.

Theo Hán thư, năm Nguyên phong thứ 2 (109 tCN), mùa đông tháng 10, nhà Hán dựng Thông Thiền Ðài ở Cam Tuyền, Phi Liêm Quán ở Trường Sa.

Ung Thiệu chú: Phi Liêm là loài chim thần có thể gọi gió đến. Năm Vĩnh Linh thứ 5 (62), Hán Minh Ðế đến Trường Sa đón nhận con Phi Liêm và con ngựa đồng đặt ở ngoài cửa Thượng Tây Môn. Phi Liêm thân Hươu, đầu chim Tước, có sừng, đuôi Rắn, vằn như vằn Báo.

Phiên hệ thi

Từ thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (trị vì 1558–1613) dựng cơ nghiệp ở phương Nam, truyền ngôi cho con là Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (trị vì 1613–1635). Từ đó, cộng đồng cùng huyết thống này ghép chữ Phúc vào họ Nguyễn, tạo nên dòng Nguyễn Phúc/Phước.

Vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Kiểu (trị vì 1820–1841) bố trí chặt chẽ việc tổ chức nội tộc, phân định cách xưng hô và đặt tên nhằm phân biệt thế thứ, đồng thời phân biệt nhánh nọ với nhánh kia.

Hậu duệ các chúa là tiền hệ. Người nam thuộc tiền hệ mang cụm từ Tôn Thất hoặc Nguyễn Phúc/Phước trước tên riêng.

Hậu duệ các vua là chính/chánh hệ, được chia thành:

* Con cháu Vua Gia Long là phiên hệ. (Hoàng Thái tử Cảnh là con vợ cả Vua Gia Long nhưng ông chết sớm và con ông tức cháu đích tôn của Gia Long không được chọn làm vua, nên dòng này thuộc phiên hệ.)
* Con cháu Vua Minh Mạng là đế hệ. (Minh Mạng là con của vợ thứ Vua Gia Long, được chọn để lên ngôi nên dòng này thuộc đế hệ).

Vua Minh Mệnh làm 10 bài Phiên hệ thi được phiên âm dưới đây, ghi theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả” do Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc biên soạn (NXB Thuận Hóa, Huế, 1995). Số phòng chỉ thứ tự các hoàng nam, anh trước, em sau.

Chỉ ghi Phòng 1 làm ví dụ dưới đây (giaoducthoidai.vn).

Phòng 1: Anh Duệ

Mỹ Lệ Tăng Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang.

Anh Duệ là Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh (1780–1801) mở ra phòng này, hậu duệ theo bài thơ vừa nêu để đặt chữ lót lần lượt, ví dụ cụ thể:

1. Con của Nguyễn Phúc Cảnh là Nguyễn Phúc MỸ Đường.
2. Con của Nguyễn Phúc Mỹ Đường là Nguyễn Phúc LỆ Chung.
3. Con của Nguyễn Phúc Lệ Chung là Nguyễn Phúc TĂNG Du.
4. Con của Nguyễn Phúc Tăng Du là Nguyễn Phúc CƯỜNG Để (Kỳ Ngoại hầu).
5. Con của Nguyễn Phúc Cường Để là Nguyễn Phúc TRÁNG Cử.
6. Con của Nguyễn Phúc Tráng Cử là Nguyễn Phúc LIÊN Thành.
7. Con của Nguyễn Phúc Liên Thành là Nguyễn Phúc HUY Tuấn.

Phiên Ngung

Kinh đô của nước Nam Việt xưa, tức Quảng Châu thuộc Tỉnh Quảng Đông ngày nay.

phiếu mẫu / xiếu mẫu

Có nghĩa bà lão giặt vải.

Theo Sử ký của Tư Mã Thiên (Nguyễn Đức Vịnh, 2022; Nguyễn Hiến Lê, 1972; Phan Ngọc, 1988), Hàn Tín người Huyện Hoài Âm, khi còn hàn vi thường ăn nhờ nhà người khác. Một hôm, Tín câu cá ở dưới thành, trong số những người đàn bà giặt vải, có một bà thấy Tín đói, cho Tín ăn cơm suốt mấy mươi ngày. Một ngày, Tín cảm động nói với bà: “Thế nào tôi cũng đền ơn bà xứng đáng”.

Bà ta giận, nói: “Kẻ đại trượng phu không có thể nuôi nổi thân mình, tôi thương cậu nên mời ăn, chứ nào phải mong cậu báo đáp!”

Về sau, Hàn Tín theo giúp Hán Cao Tổ dựng nghiệp nhà Hán, được lập làm Sở Vương, đóng đô ở Hạ Bì. Tín về đến nước bèn đem một nghìn lạng vàng thưởng cho bà lão khi xưa đã cho mình ăn.

Văn học dùng từ “phiếu mẫu” để chỉ người có lòng tốt giúp người không cần trả ơn.

Đoạn trường tân thanh, so sánh tấm lòng của vãi Giác Duyên lúc Kiều khốn khó:

Nghìn vàng gọi chút lễ thường
Mà lòng phiếu mẫu, mấy vàng cho cân!

Phó Duyệt

Ẩn sĩ ở đất Phú Nghiêm, làm nghề dùng ván ép đất xây tường. Về sau Vua Cao Tông nhà Thương mộng thấy được người hiền tướng giúp nghiệp Vương tên là Duyệt bèn cho người vẽ hình giống như trong mộng, đưa tìm khắp thiên hạ, sau quả tìm được ông ở đất Phó Nghiêm mới lập làm tể tướng, lấy tên đất làm họ gọi là Phó Duyệt (Thông chí, Sử ký).

Mai đình mộng ký

Diệu Thường cùng nếm vạc mai
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô.

phong

Cây phong thường được trồng nơi cung điện, đền đài… nên thi văn thường nói đến bệ phong, đền phong, sân phong, phong đình.

Cây phong thường mọc nhiều thành rừng ở các vùng ôn đới, mùa thu tán lá chuyển thành nhiều sắc màu vàng, cam, đỏ… rất đẹp. Vì thế, cây phong thường được thể hiện trong thơ văn (như trong bài Sơn hành của Đỗ Mục, Thu hứng của Đỗ Phủ, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị).

Cây phong gồm nhiều loài khác nhau, lá hình bàn tay rẽ làm 3 hoặc 5 thùy gần giống lá cây thầu dầu, cây sau sau. Lá phong là biểu hiệu của Canada, được thể hiện trên quốc kỳ Canada. Cây phong ở Trung Hoa chỉ cao khoảng 7 mét trong khi cây phong đường (tiếng Anh: sugar maple, tiếng Pháp: erable à sucre) ở Canada cao tới 40 mét

Ở Việt Nam, cây phong không phổ biến (chỉ có ở vùng núi cao), nhưng một số thi sĩ chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Hoa cũng nói đến cây phong, như Ngô Chi Lan (thế kỷ 15) trong bài Mùa Thu:

Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm
Rừng phong, lá rụng, tiếng như mưa…

Cung oán ngâm khúc:

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong…

Nhị độ mai:

Thiên ân ban trước phong đình…

phong đình

Đình có trồng cây phong. Xem phong.

Phong Kiều dạ bạc

Đây là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (? – 779), tác giả sống vào thời kỳ Trung Đường (766–835) trong lịch sử văn học Trung Hoa. Trương Kế từng thi đậu tiến sĩ và làm quan trong triều với chức vụ Tự bộ viên Ngoại lang, về sau bị đổi ra Hồng Châu coi việc tài phú và mất tại đây. Sinh thời, ông là người học rộng, thích đàm đạo và bàn bạc văn chương, thế sự… đặc biệt rất thích làm thơ. Bài thơ này là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, chỉ với nó ông đã được liệt vào hàng đại thi gia. Ông sáng tác bài này khi đi thi trượt trở về ghé qua Tô Châu, tức cảnh mà sinh tình.

Nguyên tác bài thơ Phong Kiều dạ bạc sau này được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong Chùa Hàn San.

Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Trần Trọng San dịch thơ:

Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài
Ngoài lũy Cô Tô, chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.

Trần Trọng San trong sách Thơ Đường ghi một truyền thuyết khá lãng mạn về bài này như sau.

Một đêm trăng, sư cụ trụ trì Chùa Hàn San có cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung

Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không thể nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì hai câu thơ chú mới nghĩ ra:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không.

nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật hai câu thơ của chú tiểu ăn khớp với hai câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San dịch thơ như sau:

Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không.

Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật.

Tình cờ đêm hôm đó, trên thuyền đậu ở bờ sông gần chùa, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu (Trần Trọng San dịch thơ):

Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài

Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho Trương Kế nghĩ ra hai câu kế tiếp (Trần Trọng San dịch thơ):

Ngoài lũy Cô Tô, chùa vắng vẻ
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.

Nhờ đó mà Trương Kế hoàn tất bài Phong kiều dạ bạc.

Xem thêm: Hàn San.

Phong thiện

Phong thiện là lễ tế trời. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên (Nguyễn Đức Vịnh, 2022; Nguyễn Hiến Lê, 1972; Phan Ngọc, 1988), Tần Thủy Hoàng sai đắp đất lên một hòn núi cao, thường là Núi Thái (tên Hán-Việt: Thái Sơn) để tế. Việc phong thiện được đưa vào quy củ từ đời Hán Vũ Đế (trị vì 141–87 tCN) và Sử ký của Tư Mã Thiên (91 tCN) dành một chương ghi tỉ mỉ về việc này (Phong thiện thư), nói về những mê tín, cúng tế của vua chúa với một giọng châm biếm chua chát.

Phong trào Đông Du

Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào là Duy Tân Hội và Phan Bội Châu.

Lịch sử

Đầu thế kỷ 20, Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt Nam, dẹp yên các cuộc nổi dậy đòi độc lập trong nước. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám chỉ còn hoạt động ở diện hẹp (bị dập tắt vào năm 1913).

Năm 1903, Phan Bội Châu, một sĩ phu yêu nước người Nghệ An, bắt đầu đi vào Nam ra Bắc để liên hệ và để thành lập một tổ chức cách mạng.

Thành lập Duy Tân

Đầu năm 1904, sau khi từ Nam Kỳ về, Phan Bội Châu cùng Kỳ Ngoại hầu Cường Để (cháu 5 đời của Hoàng tử Cảnh) và hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm (còn có tên là Nguyễn Thành, Nguyễn Tiểu La) tại Nam Thịnh Sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập ra một tổ chức bí mật có tên là Duy Tân Hội.

Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm Hội chủ để thu phục nhân tâm tập hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước. Còn Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân… đều là những hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội.

Sau khi bàn bạc, hội nghị thành lập hội đề ra ba nhiệm trước mắt, đó là:

1/ Phát triển thế lực hội về người cũng như về tài chính
2/ Xúc tiến chuẩn bị bạo động và các công việc khác sau khi khởi phát bạo động
3/ Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện, và cách thức tiến hành.

Hai khoản trên được giao cho toàn thể hội viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì ủy thác cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện, các hội viên khác không được biết.

Và theo Nguyễn Hàm, thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình không xong thì cứu được ai. Duy nước Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng mới đánh được Nga, dã tâm đang hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng viện cho ta. Nếu nó không xuất binh nữa mà (ta tới) mướn tư lương mua khí giới, tất có thể dễ lắm… Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu viện được đông đảo hội viên tán thành.

Sang Nhật Bản cầu viện

Năm 1905, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ (một thành viên cũ của Phong trào Cần Vương, làm người dẫn đường) xuống tàu thủy tại Hải Phòng, theo đường biển bí mật sang Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng Hải rồi đi tới Yokohama, Nhật Bản.

Đến nơi, Phan Bội Châu gửi thư xin gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc. Trong cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu khuyên Phan Bội Châu không tìm cách cầu ngoại viện (nhất là không nên đem quân đội Nhật vào nước) để lấy lại độc lập; mà nên chú trọng việc giáo dục và thức tỉnh nhân dân trong nước trước, khi có thời cơ tốt thì ai nấy đều đã sẵn sàng để làm cuộc nổi dậy…

Sau đó, Lương Khải Siêu còn giới thiệu Phan Bội Châu với hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Okuma Shigenobu và Chính khách Inukai Tsuyoshi để xin chính phủ Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh đuổi Pháp. Nhưng hai người này cho rằng thời điểm đó chưa thích hợp để Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, chỉ khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật (?), viết sách báo để tranh thủ sự đồng tình của dư luận thế giới, đồng thời cổ động thanh niên sang Nhật học tập để chờ đợi thời cơ[2].

Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu chuyển hướng từ “cầu viện” sang “cầu học”.

Năm 1906, Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mang một số sách “iệt Nam vong quốc sử bí mật về nước.

Phát động Phong trào Đông Du

Phan Bội Châu cùng các thành viên nòng cốt trong Duy Tân Hội, sau khi bàn bạc đã đề xướng việc lập các hội nông, công, thương, để vừa tập hợp đoàn kết lực lượng, vừa lấy đó làm cơ sở kêu gọi thanh niên xuất dương và là cơ quan tài chính giúp đỡ phong trào Đông Du.

Song song với các hoạt động trên, các thành viên của phong trào còn sáng tác nhiều thơ ca yêu nước như: Hải ngoại huyết thư, Việt Nam Quốc sử khảo, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân của Phan Bội Châu, Viễn hải quy hồng của Nguyễn Thượng Hiền), Kính cáo toàn quốc của Cường Để, v.v…gửi về nước tuyên truyền cổ động nhân dân hưởng ứng phong trào.

Vì vậy, sau khi phát động, phong trào Đông Du được đông đảo người dân ở cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.

Ở Nam Kỳ, Phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần Chánh Chiếu. Ông này lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ của nhưng người yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã để vừa chấn hưng công-thương-nghiệp vừa để có tiền ủng hộ Phong trào Đông Du. Ngoài ra, với vai trò là chủ bút tờ Nông cổ mín đàmLục tỉnh tân văn, ông còn cho đăng báo những bài có tư tưởng chống Pháp. Nhiều nhân sĩ khác ở đây cũng tích cực tham gia và hết lòng lo cho sự nghiệp chung như Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí Nhuận, Đặng Minh Chương…

Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với 3 thanh niên (Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điền, Lê Khiết), sau đó lại có thêm 5 người nữa (trong đó có hai anh em Lương Ngọc Quyến, Lương Nhị Khanh và Nguyễn Văn Điến).

Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học Trường Quân sự Tokyo (Đông Kinh Chấn Võ Học Hiệu) cùng với Lương Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật du học lên tới khoảng 200 người, hầu hết đều vào học tại trường Đông Á Đồng Văn thư viện – một trường của Nhật tại tô giới của Nhật ở Thượng Hải (Trung Quốc), sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội…

Tổ chức Cống hiến hội

Tại trường Chấn Võ và Đông Á đồng Văn thư viện, lưu học sinh Việt Nam được phiên chế vào các ban ngành chuyên môn. Buổi sáng học văn hóa, buổi chiều học các tri thức quân sự và luyện tập ở thao trường.

Để tăng cường quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu tổ chức Việt Nam Cống hiến hội (gọi tắt là Cống hiến hội), cử Cường Để làm Hội trưởng và ông (Phan Bội Châu) làm Tổng lý kiêm Giám đốc trực tiếp chỉ đạo tổ chức này.

Hội có 4 bộ lớn, mỗi bộ có 3 đại biểu của Bắc-Trung-Nam, đó là:

** Bộ Kinh tài chuyên trách việc thu chi; gồm các ủy viên Đặng Tử Kính, Đặng Bỉnh Thành, Phạm Chấn Yêm.

** Bộ Kỷ luật chuyên theo dõi ưu khuyết và thưởng phạt học sinh; gồm các ủy viên Đàm Kỳ Sinh, Phan Bá Ngọc, Hoàng Quang Thành.

** Bộ Giao tế phụ trách việc giao thiệp với người nước ngoài và đưa đón người trong nước ra, gồm các ủy viên Phan Thế Mỹ, Nguyễn Thái Bạt, Lâm Quảng Trung.

** Bộ Văn thư chuyên trách việc giấy tờ đi lại, phát hành và lưu trữ các văn kiện; gồm các ủy viên Hoàng Trọng Mậu, Đặng Ngô Lân và Hoàng Hưng.

Ngoài ra, còn có Cục Kiểm tra để giám sát nhân viên các bộ trên trong khi thừa hành nghiệp vụ; gồm các ủy viên Lương Nhập Nham, Trần Hữu Công và Nguyễn Diễn.

Theo hồi ký của một người thời đó về Việt Nam Cống hiến hội: “Mỗi Chủ nhật có một phiên họp toàn thể tại trường. Sau phần diễn văn của các ông chủ tịch và tổng thư ký, mọi người đều có quyền tham gia vào cuộc tranh luận và đưa ra ý kiến của mình.”

Những phiên họp này góp phần tạo ra tinh thần đoàn kết và một bầu không khí đồng chí. Tuy rằng Việt Nam Công Hiến hội chưa phải là “một hình thức chính phủ lâm thời lưu vong của Việt Nam” như Phan Bội Châu viết trong hồi ký của ông, nhưng Công Hiến hội đánh dấu một bước tiến lớn trong việc phát triển một hình thức tổ chức dân chủ trong nền chính trị Việt Nam cũng như đặt những viên đá đầu tiên cho nền móng của một tinh thần quốc gia Việt Nam hiện đại. Đúng vào lúc phong trào Đông Du đang tiến hành tốt đẹp thì Nhật trở mặt.

Phong trào tan rã

Lúc bấy giờ, các cuộc vận động duy tân ở trong nước của các tổ chức Duy Tân Hội, Phong trào Duy Tân (được phát động năm 1906) và Đông Kinh Nghĩa thục (được thành lập tháng 3 năm 1907) tạo nên một không khí cách mạng về dân trí rất sôi nổi.

Phong trào Đông Du lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam; và việc học tập của lưu học sinh ở Nhật cũng ổn định và đang phát triển thuận lợi.

Tháng 3 năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (tức phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ) nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam, rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt, trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội.

Đang khi ấy ở Nam Kỳ, Trần Chánh Chiếu (một trong số người tích cực ủng hộ Phong trào Đông Du ở Nam Kỳ) lại cho đăng những bài có tư tưởng chống Pháp. Vì thiếu chứng cớ, chính quyền thực dân không thể kết án ông, nhưng kể từ đó nhiều người cùng hoạt động với ông, họ bí mật khủng bố.

Thêm một cái cớ nữa để thực dân ra sức đàn áp, đó là vào tháng 3 năm 1908, các phụ huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai theo đường bưu điện cho Phan Bội Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay tin, thực dân Pháp bèn bố trí người và bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh Thành cùng với mọi giấy tờ, khi tàu vừa cặp bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về, các hội buôn có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt bớ…

Tháng 6 năm đó, lại xảy ra vụ Hà thành đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra sức đàn áp các phong trào và tổ chức cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, để làm tan rã phong trào Đông Du, Pháp còn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9 năm 1908. Theo đó, Pháp cho Nhật vào Việt Nam mua bán; đổi lại, Nhật sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt Nam ở Nhật nữa.

Với sự giúp đỡ của Nhật, mật thám Pháp biết được tên tuổi của hầu hết các du học sinh. Điều này giúp cho chính quyền thuộc địa Pháp làm áp lực với gia đình của các du học sinh này và buộc hầu hết họ phải trở về Việt Nam.

Sau khi cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán tất cả các học sinh người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và Duy Tân hội đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.

Nhưng không phải tất cả những du học sinh đều lựa chọn trở về. Một số được gia đình khuyến khích ở lại và một số quyết định ở lại sống cuộc sống lưu vong bất chấp sự từ bỏ của gia đình. Cuộc đời của những người này, được kể lại trong hồi ký của Phan Bội Châu, đến nay vẫn còn làm người đọc cảm động. (bbc.com)

Phong Trắc

Sách Thiên hạ dị kỹ: Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn.

Phổ Hiền Bồ tát

Xem: Bồ tát Phổ Hiền.

phỗng

Phỗng là tượng người làm bằng đất hoặc đá, được đặt ở đền chùa, miếu mạo, được cho là đứng hầu nơi thờ tự. Tượng phỗng ở các đền chùa thường trong tư thế đứng hoặc quỳ, hai tay đưa lên phía trước để dâng đèn hoặc nến, hoặc làm động thái cung kính.

Phỗng còn là tượng dân gian bằng đất, sành hay sứ, cỡ nhỏ, dáng to béo, lạc quan, để bày trong gia đình.

Tùy theo tượng nặn một người lớn hay một trẻ con và tù theo tượng được đặt ở nơi thờ tự hay làm đồ chơi mà dân gian gọi là ông phỗng hay thằng phỗng.

Ông phỗng đá – Nguyễn Khuyến

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?

Sinh thời, Nguyễn Khuyến bất đắc dĩ phải đến tư dinh Hoàng Cao Khải dạy học (thực tế là Hoàng Cao Khải cho “mời” đến để giám sát). Nhà thơ vốn không ưa gì họ Hoàng cùng đám quan lại bợ đỡ. Tương truyền khi Hoàng Cao Khải mừng thọ 50 tuổi, tổ chức vịnh thơ, Nguyễn Khuyễn làm bài ca trù trên để mắng khéo gia chủ.

Phú Bật

Người đất Hà Nam đời Tống, rất chăm học và có độ lượng. Khi quân Khiết Ðan xâm lăng Tống, đóng đồn ngay trên đất Tống. Phú Bật được cử đi sứ đòi lại đất, cực lực phản kháng bọn xâm lược đồng thời ông trình bày cái lẽ lợi hại của việc chiến hay hòa. Quân Khiết Ðan nghe ra phải rút quân về nước. Ði sứ về ông được phong chức Khu mật Phó sứ. Ðến đời Vua Tống Anh Tông, ông được lên chức Khu mật sứ, tước Trình Quốc Công. Về hưu, ông cùng Văn Ngạn Bác, Tư Mã Quang… gồm 13 người theo chuyện Của Lão Ðồ của Bạch Cư Dị mà lập nên Lạc Dương Kỳ Anh hội, cùng uống rượu, họa thi làm vui.

Phù Tang

Chỉ nơi mặt trời mọc, tức phương đông. Thần thoại cổ Trung Hoa nói rằng thần mặt trời tắm ở ao trời, gọi là đầm Dục Nhật ở Dương Cốc rồi lên chơi ở gốc cây thần gọi là cây Phù Tang, sau đó mới cưỡi xe lữa ruỗi rong qua bầu trời từ Ðông sang Tây.

phù / binh phù

Cái thẻ để làm tin, vua giữ một nửa và người nhận mệnh lệnh của vua (thường để đi đánh xa) để thực hiện việc gìn giữ một nửa. Khi nào nhà vua muốn sai một người thay thế mình thì giao cho người này cái nửa của mình. Nếu hai cái “phù” khớp lại thì đúng là người đến sau thay thế người đến trước để điều khiển quân đội.

Phù Nam

Tiếng Khmer: Phnom, tiếng Anh: Funan, Phù Nam là một quốc gia cổ của người Khmer xuất hiện khoảng đầu thế kỷ 1. Trung tâm của Phù Nam tọa lạc tại vùng hạ lưu và đồng bằng Sông Cửu Long, nhưng lãnh địa của nó vào thời cực thịnh bao gồm cả miền nam Việt Nam, miền trung Sông Cửu Long, và phần lớn Thung lũng Sông Menam (Chao Phraya ngày nay) cùng Bán đảo Mã Lai. Kinh đô của nó trong một thời kỳ là Vyadhapura, tọa lạc ở vùng lân cận ngọn đồi Ba Phnom và Làng Banam, hai địa điểm trong Tỉnh Prei Veng của Campuchia. Theo Sử ký nhà Lương, kinh đô này nằm cách bờ biển 200 km. (Coedes, 1968)

Phù Nam tồn tại dựa trên các trung tâm chính trị và thương mại như Angkor Borei và Óc Eo. Những trung tâm này kiểm soát, kết nối hệ thống các khu đô thị và khu định cư cổ phân bố cả hai bên đường biên giới Việt Nam-Campuchia ngày nay. Nền chính trị, ý niệm quyền lực, nghi lễ tôn giáo của Phù Nam gắn bó chặt chẽ với sự thực hành chính trị và tư tưởng quyền lực Ấn Độ. Họ xây dựng các kênh đào, có các trung tâm sản xuất thủ công như đồ gốm và chế tác đồ trang sức, cũng như một mạng lưới các trung tâm tôn giáo phức tạp. Phạm vi “lãnh thổ” Phù Nam có thể được phác thảo thông qua mạng lưới này. Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 6, Phù Nam phát triển thành đế chế lớn mạnh.

Bản đồ chỉ thời kỳ Chân Lạp (Chenla) và Phù Nam (Funan) cùng hiện hữu, tức trong khoảng thế kỷ 5-6. Trong giai đoạn này, nước của người Việt mang tên Giao Châu (203–504, Bắc thuộc lần 2) và Vạn Xuân (544–602, Nhà Tiền Lý).

Theo sách Phù Nam thổ tục, hai sứ giả của Tôn Quyền (trị vì 229–252) là Tchou Ying (Châu Ứng) và Kang Tai (Khang Thái) từng đi tới Phù Nam, được biết xứ này do một phụ nữ tên Liu Yeh (Liễu Diệp) cai trị. Một người nước ngoài, có lẽ là một quý tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà la môn tên Kaunđinya (sách Hoa ngữ gọi là Hỗn Điền), sang cưới Liu Yeh và lập ra một triều đại tại đây.

Tchou Ying và Kang Tai tường thuật tiếp:

“  Vương Quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 hải lý, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở… Nước da người dân màu đen, tóc quăn, xấu xí… Đàn bà mặc cái chăn tròng từ cổ tới chân, xỏ lỗ tai để đeo bông tòn ten.

“  Nếp sống tuy rất đơn giản nhưng họ không trộm cắp. Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong 3 năm. Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo; nhiều món đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc. Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu và dầu thơm.

“  Họ biết đọc sách và có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ, một sắc dân ở Trung Á dùng Ấn tự.

“  Cảnh vật trong xứ rất đẹp…”

Vào thời Tam Quốc (220-280), Phù Nam đã thiết lập quan hệ bang giao với nước Ngô. Theo Ngô thư, tháng chạp năm 243, Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ sang dâng nhạc công và nhiều sản vật địa phương. Sau này khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô cũng sai sứ đi các nước phương Nam. Vua các nước Phù Nam, Lâm Ấp (Champa) và Minh Đường đều sai sứ dâng cống.

Danh xưng “Phù Nam” là gọi theo Hoa ngữ, có lẽ do họ phiên âm từ tiếng Môn-Khmer cổ “boman” (ngày nay được đọc là “phnom”, có nghĩa là núi, và các vua của vương quốc này đều lấy vương hiệu là “ Kurung Boman” có nghĩa là “Vua Núi”).

Thật ra Phù Nam là một quốc gia hỗn hợp gồm nhiều tộc người khác nhau, do một xứ Phù Nam chánh tông nắm địa vị tôn chủ, và một số tiểu quốc kia phải thần phục và cống nạp. Vì thế, có tác giả cho rằng Phù Nam từng là một đế quốc.

Vào thế kỷ 5, tài liệu Tàu có ghi một ông vua tên là Trì Lê Đà Bạt Ma ở ngôi trong giai đoạn 424–438 rồi tới Đồ Da Bạt Ma và Lưu Đà Bạt Ma. Thư tịch cổ còn ghi tiếp sau đó nước Phù Nam bị một nước khác ở phía bắc đánh bại từ cuối thế kỷ 6 đến giữa thế kỷ 7. Phù Nam tới đây là dứt.

Người ta biết về nước Phù Nam trước hết là nhờ những ghi chép của thư tịch cổ Trung Hoa, riêng Lương thư (sử nhà Lương 502-556) là đầy đủ hơn cả:

“ Nước Phù Nam ở bên trong một vịnh lớn ở phía tây biển… cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý [1 lý bằng 0,5 km] về phía tây-nam. Đô thành cách biển 500 lý. Một con sông lớn từ tây-bắc chảy về phía đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 3.000 lý. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại để giống Lâm Ấp”.

Theo sử liệu Trung Hoa, các vua Phù Nam bắt đầu từ đời thứ 5 là Phạm Mạn liên tục thôn tính hơn 10 tiểu quốc nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần hạ lưu Sông Mê Nam (bây giờ mang tên Chao Phraya), mở rộng lãnh thổ đến 5,6 nghìn dặm [1 dặm Tàu bằng 1 lý tức 0,5 km].

Sau cuộc khai quật vào năm 1944, nhà khảo cổ L.Malleret cho rằng Óc Eo (ở Núi Ba Thê, hiện nay thuộc Thị trấn Óc Eo, Huyện Thoại Sơn, An Giang) là một thành phố cảng lớn và trọng yếu của Vương quốc Phù Nam. Nơi này từng tồn tại một hải cảng sầm uất của Vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7. Đó là một nền văn họa biển, hình thành và phát triển ở miền Tây sông Hậu, cư dân Oc Eo–Phù Nam sớm thành thạo kỹ thuật khai thác biển, có kiến thức và kinh nghiệm sâu sắc trong việc trị thủy, làm thủy lợi và phát triển kinh tế hải thương. Do đón nhận và biết phát huy những điều kiện thuận lợi của vị thế tự nhiên, Phù Nam trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, đồng thời là nơi tiếp nhận và truyền phát văn hóa giữa hai thế giới phương Đông (Trung Hoa, Ấn Độ) và phương Tây (La Mã, Ba Tư)…

Dưới những hố khai quật ở Óc Eo người ta tìm thấy nhiều di cốt của vật nuôi như chó, heo, gà, mèo… Trong những hình khắc trên vật dụng và trang sức bằng gốm, đồng và vàng có hình voi được đóng bành trên lưng. Thuần dưỡng được loài súc vật to lớn như voi để làm công cụ, chứng tỏ cư dân Phù Nam cổ đã có một trình độ phát triển rất cao. Việc này thư tịch cổ Tân Đường ghi: “Vua Phù Nam sai sứ sang cống voi đã thuần dưỡng”.

Sự thịnh vượng của Phù Nam được phản ánh qua số lượng phong phú các hiện vật khảo cổ được tìm thấy mà phần lớn trong số chúng là những vật phẩm thương mại giá trị. Rất nhiều trong số chúng có nguồn gốc ngoại lai từ Rome, Ấn Độ, Trung Hoa và các khu vực thuộc Đông Nam Á: từ các đồng tiền, chuỗi hạt đá quý, thủy tinh, đồ kim loại, đồ trang sức vàng, ngọc, các vật phẩm tôn giáo như lá vàng khắc chữ Sanskrit, hay khối lượng phong phú hình các linga, tượng thờ…

Các món trang sức bằng đá quý và thủy tinh cũng gợi ý về các trung tâm chế tác ở vùng châu thổ Mekong và sự gắn bó chặt chẽ với nhiều vùng sản xuất khác trên đất Ấn Độ. Số lượng đồ gốm rất đa dạng tại các di tích này cho thấy sự phát triển của thủ công nghiệp, trong khi các con kênh cổ có thể được dùng cho cả mục đích giao thương và sản xuất nông nghiệp. (Vũ Đức Liêm, 2017)

Chính vì vậy, Óc Eo chứa đựng một trữ lượng tài liệu lịch sử vô cùng phong phú, minh chứng cho sự tồn tại của một dân tộc, của một nền văn minh đã từng hiện hữu. Xem thêm: Văn hóa Óc Eo.

Vào thế kỷ 5, tiểu quốc của người Cát Miệt, lúc bấy giờ ở vùng trung lưu Sông Mekong và khu vực phía bắc Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính, cũng trở thành một thuộc quốc Phù Nam. Cát Miệt là phiên âm chữ Hán của Khmer. Trong nhiều thư tịch cổ, thuộc quốc này về sau có tên gọi là Chân Lạp (Tchenla hoặc Chenla).

Chân Lạp dần lớn mạnh, không những cởi bỏ được ách thống trị và còn bắt Phù Nam thần phục lại mình. Sự kiện này xảy ra vào khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627). Từ đó trở đi, Phù Nam đi vào đường diệt vong, đất nước của họ bị sát nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp.

Nguồn: Chen (no date), Coedes (1968), Pelliot (2014); Vũ Đức Liêm (2017); Wikipedia_Phù Nam.

Phù Đổng Thiên Vương

Phù Đổng Thiên Vương tức Thánh Gióng hay Sóc Thiên Vương (khoảng thế kỷ 17 tCN), là nhân vật trong truyền thuyết nước Việt, một trong “Tứ bất tử”, bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh.

Phù Đổng Thiên Vương được xem là tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ.

Câu chuyện này có một số dị bản. Câu chuyện về Phù Đổng Thiên Vương trong Lĩnh Nam chích quái (Lê Hữu Mục, 1960) được hợp nhất với Sóc Thiên Vương của Việt điện u linh tập (Trịnh Đình Rư, 2012), đại thể như sau.

Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân (1766– 1122 tCN) mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp?”

Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là nhân vật phi thường, mới vào tâu Vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: “Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp”.

Cụ già bảo vua rằng: “Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy”.

Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, quân biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới Làng Phù Đổng, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai tên là Gióng, ba tuổi vẫn chưa biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được.

Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói đùa rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm”.

Gióng nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ gọi sứ giả tới đây”.

Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới.

Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?”

Gióng nhỏm dậy, bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa!”

Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: “Ta không lo nữa”.

Quần thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?”

Vua nổi giận nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón”.

Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con.

Gióng cười bảo rằng: “Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo”. Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người.

Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân Núi Trâu (tên Hán-Việt: Trâu Sơn) ở Vũ Ninh, Gióng duỗi chân đứng dậy cao hơn 10 thước (có chỗ nói là trượng), ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là thiên tướng đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy Thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân Vương bị chết ở trong trận.

Đi đến đất Sóc Sơn Huyện Kim Hoa, Gióng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, còn để vết tích ở hòn đá trên núi.

Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn Gióng là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa.

Đến thời Lý Thái Tổ, nhà Vua phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập miếu ở Làng Phù Đổng cạnh Chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở Núi Vệ Linh nằm trên hai huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và Sóc Sơn (Hà Nội), xuân thu hai mùa tế lễ.

Về sau, Gióng được tôn là Thánh Gióng, được thờ phụng như là Thượng đẳng Thần.

Đền Phù Đổng

Đền Phù Đổng được xây dựng tại Xã Phù Đổng (Làng Gióng) thuộc Huyện Gia Lâm, bên trong đê Sông Đuống, cách trung tâm Hà Nội 17 km về hướng đông-bắc. Đây là quê hương của Phù Đổng Thiên Vương.

Đền Phù Đổng còn lưu được 21 đạo sắc phong, thời Lê 12 đạo, thời Tây Sơn 3 đạo, thời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm 1634. Trong đền còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17) được chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị Huệ cung tiến; bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.

Đền Thượng tức Đền Phù Đổng Thiên Vương có những hạng mục dưới đây.

Ngũ quan với 3 cửa chính và 2 cửa phụ, mang dáng dấp đồ sộ như một cổng thành, được xây bằng gạch, các khuôn cửa đều có cấu tạo dạng vòm cuốn, cánh cửa kiểu thượng song, hạ bản. Trên cổng là tòa nhà kiểu 2 tầng 8 mái.

Đôi câu đối trước cổng đền viết:

Thiết mã khóa vân cung, tuấn nhạc, liên quan thiên cổ ngưỡng
Thạch long kiều thủy các, sùng từ uy vọng ức niên khâm.

Dịch:

Ngựa sắt vượt cung mây, núi cao rạng rỡ ánh thiêng, ngàn năm nhìn ngắm
Rồng đá chầu gác nước, đền lớn nguy nga vẻ đẹp, muôn thuở tôn sùng.

Phương đình là tòa nhà 2 tầng 8 mái, lợp ngói mũi hài, có mặt bằng nền hình vuông. bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hoa văn hình học, 8 góc đao gắn hình lá lật. Hệ khung mái được đỡ bởi 4 hàng cột, kết cấu vì dạng thượng rường, hạ cốn.

Nhà thiêu hương (bái đường) tiếp theo, cấu tạo giống thủy đình nhưng nhỏ hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn (20 cm x 30 cm).

Bái đường liền nhà thiêu hương, gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái kiểu chồng diêm hai tầng, hệ mái tì lực trên 6 bộ vì gỗ, trong đó, 4 bộ vì giữa được kết cấu theo dạng thượng đinh, hạ kẻ, 2 vì hồi kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên.

Bên phải từ cổng vào có một tượng ngựa đồng pha sắt, nặng khoảng hơn hai tấn, minh họa ngựa sắt ngày xưa Thánh Gióng từng cưỡi đi đánh giặc.

Trung đường gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ đinh, hai đầu hồi xây tường bao, mặt trước và mặt sau để trống, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, tì lực trên 6 hàng chân cột, 4 vì giữa kiểu thượng đinh, hạ kẻ, 2 bộ vì bên kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên.

Hậu đường có mặt bằng kiến trúc dạng chữ công (工), gồm ngoại cung, ống muống và hậu cung. Hậu đường có tượng Thánh Gióng cao 3 m, hai bên có sáu tượng quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận “tứ trấn”.

Tả mạchữu mạc là 2 dãy nhà, mỗi bên 9 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 10 bộ vì kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên.

Nhà khách có mặt bằng hình chữ nhất (一), tường hồi bít đốc, hệ thống cửa bức bàn, hai đầu bờ nóc đắp rồng lá cách điệu. Bộ khung gồm 4 bộ vì, được kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng, mái phân khoảng hoành kiểu thượng tam, hạ ngũ. Hệ khung mái tì lực trên 3 hàng chân cột.

Nhà giám có mặt bằng dạng chữ U, gồm cung chính và 2 dãy nhà ngang hai bên. Cung chính gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, 6 bộ vì gỗ được kết cấu theo kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên, tì lực trên 6 hàng chân cột.

Mộ Trần Đô Thống: ở trước đền Thượng. Tục truyền Đô Thống là một tướng của Thánh Gióng cầm đạo tiên phong trong đoàn quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.

Thủy đình nằm ở giữa ao đình, phía trước đền, có mặt bằng hình vuông, với hai tầng, 8 mái, lợp ngói mũi hài. Các bộ vì có kết cấu chồng rường giá chiêng, hoành mái được phân khoảng theo kiểu thượng tam, hạ tam. Hệ mái tì lực trên 4 hàng chân cột. Có nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, đề tài là những cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng… Thủy đình là nơi diễn ra các trò chơi dân gian và múa rối nước.

Đền Hạ / Đền Mẫu: Đây là nơi thờ mẹ của Thánh Gióng.

Miếu Ban: cách Đền Thượng khoảng 200 m.

Đình Hạ Mã: được xây dựng từ thời Lý. Khi các quan đại thần triều Lý hàng năm về tế ở Đền Gióng, đến đó xuống ngựa (“hạ mã”) rồi sửa soạn y phục chỉnh tề sang Đền Thượng để tế Thánh.

Cố viên: còn được gọi là vườn rau hay vườn cà, Cố viên (vườn cũ) nằm trên thềm đất bãi sông, cách Đền Hạ khoảng 500 m. Tương truyền, mẹ Gióng ra vườn này hái rau, rồi ướm vào vết chân người khổng lồ, về nhà mang thai, sinh ra Gióng.

Đền Sóc

Khu Di tích Đền Sóc tọa lạc dưới chân Núi Sóc, Xã Phù Linh, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Sau khi dẹp giặc xong, Thánh Gióng đến nơi đây, cởi áo chiến bào để lại đỉnh núi đá Chồng rồi cả người và ngựa bay thẳng về trời.

Khu Di tích Đền Sóc gồm có Đền Trình, Đền Mẫu, Chùa Non Nước, Chùa Đại Bi, Đền Thượng, Hòn đá Chồng, Tượng đài Thánh Gióng, và các lăng bia đá ghi lại lịch sử và lễ hội đền Sóc.

Đền Trình (hay còn được gọi là Đền Hạ) ở ngay từ cổng đi vào, là nơi đặt tượng thờ sơn thần. Bức tượng này được đúc hoàn toàn từ đồng, nặng 7 tấn với phong thái vô cùng uy nghi.

Chùa Đại Bi tiếp theo Đền Trình, nằm khuất bóng giữa những hàng cây. Đây là ngôi chùa cổ với những bức hoành phi, câu đối xưa được sơn son thếp vàng cùng lối kiến trúc cổ kính nhuốm màu rêu phong.

Đền Mẫu đối diện Chùa Đại Bi, đặt tượng thờ mẹ Thánh Gióng. Giếng nước bên ngoài đền cũng được gọi là Giếng Mẫu.

Đền Thượng là nơi thờ Đức Thánh Gióng. Trong đền có nhà đại bái và hậu cung. Nhà đại bái được trang trí bằng những câu đối, lọng, đôi hạc…đều là những nét đặc trưng của lối kiến trúc chùa cổ Việt Nam, còn hậu cung đặt một bức tượng thờ Thánh Gióng được làm từ gỗ trầm hương.

Chùa Non Nước vốn có tên Hán-Việt là Sóc Thiên Vương Thiền Tự, có bề dày trên 1000 năm lịch sử, nằm ở độ cao 110 m thuộc sườn Núi Non, phía nam Núi Nhà Bia. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử và thiên nhiên, Sóc Thiên Vương Thiền Tự bị chôn vùi hoàn toàn. (kinhtedothi.vn)

Sau khi nền chùa cũ được phát hiện, năm 2000, Đại đức Thích Thanh Quyết tổ chức xây dựng lại ngôi chùa trên nền đất cũ bằng tiền của tăng ni phật tử và thiện nam tín nữ quyên góp, và chùa mới mang tên Non Nước.

Tượng đài Thánh Gióng tọa lạc trên đỉnh Núi Đá Chồng với kích thước khổng lồ: Chiều cao 11 m, độ vươn ra 16 m, nặng 85 tấn, Tượng đài Thánh Gióng nhìn từ dưới chân Núi Vệ Linh sừng sững và hiên ngang.

Vinh danh

Tượng đài Thánh Gióng được dựng năm 1966 ở Ngã 6 Phù Đổng, Quận 1, Sài Gòn. Có một chi tiết lạ: Thánh Gióng cầm cây tre, ngồi trên lưng ngựa sắt vẫn còn là một chú bé, khác với truyện được lưu truyền miệng trong dân gian, với Thánh Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai đứng dậy trở thành một tráng sĩ cao lớn để đi đánh giặc ngoại xâm.  Nhưng chính nhờ sự khác này mà bức tượng Phù Đổng Thiên Vương ở Sài Gòn trở nên đặc biệt, đồng thời với việc nhấn mạnh truyền thống yêu nước, quyết tâm bảo vệ đất nước trước quân xâm lược, dù chỉ là một đứa trẻ cũng có thể vì quê hương mà đánh giặc.

Có đường phố mang tên Phù Đổng Thiên Vương hoặc Phù Đổng ở Cao Lãnh, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Tp HCM, Nha Trang, Phú Thọ, Pleiku, Việt Trì, Huyện Sóc Sơn…

Có cơ sở mầm non và trường học mang tên Phù Đổng ở Bến Cát (Bình Dương), Biên Hòa, Chợ Mới (An Giang), Đà Nẵng, Duy Xuyên (Quảng Nam), Đại Lộc (Quảng Nam), Hà Nội, Tp HCM, Tuy Hòa…

Hội khỏe Phù Đổng là đại hội thể dục thể thao của học sinh phổ thông các cấp học. Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc và cấp khu vực được tổ chức bốn năm một lần, cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã được tổ chức hai năm một lần, cấp trường tổ chức mỗi năm một lần.

Lễ hội

Lễ hội Gióng Đền Phù Đổng, Xã Phù Đổng, Huyện Gia Lâm, Hà Nội, là Hội trận, được Vua Lý Công Uẩn cho khởi tạo và tổ chức từ thời Lý; diễn ra từ ngày mùng 7-9 tháng 4 âm lịch hàng năm nhằm tái hiện lại trận đánh oai hùng của Thánh Gióng.

Lễ hội được người dân Phù Đổng bảo tồn, trao truyền cơ bản nguyên vẹn từ đời này qua đời khác; là một kịch trường dân gian, diễn ra trong một không gian rộng lớn với hàng nghìn vai diễn chính là nhân dân; nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc của người Việt.

Hội Gióng được tổ chức ở Đền Phù Đổng, Huyện Gia Lâm, và Đền Sóc, Huyện Sóc Sơn. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, được tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền. Hội Gióng ở Đền Phù Đổng, Huyện Gia Lâm (nơi Thánh Gióng chào đời) diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 âm lịch, còn Hội Gióng ở Đền Sóc, Huyện Sóc Sơn (nơi Thánh hóa) diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Giêng.

Với sự đặc sắc và những giá trị to lớn, năm 2010, Hội Gióng Đền Phù Đổng cùng với Hội Gióng Đền Sóc được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Xem thêm về Đền Phù Đổng và Đền Sóc

Diệp Minh Tâm (2021). Đền, miếu và thiền viện ở Việt Nam – Bài 1 trong 2.
https://tamdiepblog.wordpress.com/2021/03/10/den-mieu-va-thien-vien-o-viet-nam-bai-1-trong-2/

Phủ biên tạp lục

Phủ biên tạp lục (chữ Hán: 撫 邊 雜 錄) là bộ sách gồm 8 quyển của Lê Quý Đôn ghi chép lại hầu hết những thông tin quan trọng về kinh tế và xã hội của xứ Đàng Trong trong gần 200 năm, từ cuối thế kỷ 16 đến thời kỳ ông làm quan Hiệp trấn xứ Thuận Hóa của chính quyền Lê–Trịnh.

Tựa đề phủ có nghĩa là vỗ về, biên có nghĩa là vùng biên cảnh, tạp là gồm nhiều đề mục khác nhau, và lục là ghi chép. Ghép lại Phủ biên tạp lục có nghĩa là ghi chép việc vỗ yên dân ở vùng biên cảnh. Sở dĩ có tên như vậy vì nó liên quan đến vai trò của Lê Quý Đôn đã làm sau khi quân Trịnh chiếm vùng Thuận Hóa của Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh Sâm trao chức Hiệp trấn vùng này.

Trong thời gian làm việc ở Trấn Thuận Hóa, ngoài công việc của một chức quan, Lê Quý Đôn còn dành thời gian ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam. Ông cẩn trọng đối sánh, xác minh, chỉnh lý và hệ thống hóa rồi cuối cùng cho ra tác phẩm Phủ Biên tạp lục này, được hoàn thành khoảng năm 1776.

Nguyên bản chữ Hán của bộ sách được lưu trữ trong kho thư tịch cổ của Thư viện Viện Khảo cổ Sài Gòn, bộ sách hiện còn tất cả sáu quyển.

Quyển 1: Sự tích khai mở và xây dựng. Tên các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang, trại.

Quyển 2: Hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, trạm dịch.

Quyển 3: Công tư điền trang, bãi đất và tổng số trưng thu lúa gạo. Lệ cũ về các ti, quan thuộc chức và thủ binh sĩ. Số ngạch nhân đinh, các hạng duyệt tuyển, các hạng giản tuyển và lệ cũ về tổng số phân bổ quân hiệu.

Quyển 4: Lệ thuế đầu nguồn, tuần ti, ao đầm, sông bến, thuế chợ và thuế chuyên chở vàng, bạc, đồng, sắt.

Quyển 5: Nhân tài và thơ văn

Quyển 6: Sản vật và phong tục.

Phủ biên tạp lục cũng là tài liệu cổ xưa mô tả kỹ càng nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Phủ biên tạp lục được Trần Đại Vinh dịch và bổ chính đầy đủ gồm 6 quyển, và được Nhà Xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2018.

Phủ Tây Hồ

Đây là đền thờ Công chúa Liễu Hạnh, tọa lạc tại bán đảo lớn của Làng Nghi Tàm, nhô ra giữa Hồ Tây, ở số 52 Phố Đặng Thai Mai, Phường Quảng An, Quận Tây Hồ, Hà Nội. Theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nhưng có thể có muộn hơn.

Tục truyền Liễu Hạnh là Quỳnh Hoa, con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ một ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu. Người tiên nữ ấy ngang dọc một trời, giúp dân an cư lập nghiệp, diệt trừ ma quái, trừng phạt tham quan. Đến triều Nguyễn, bà được nhà vua phong “mẫu nghi thiên hạ”, là một trong bốn vị thần Tứ bất tử của Việt Nam (gồm có Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Thánh Mẫu).

Tương truyền Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đi sứ về, gặp một nàng tiên trên địa đầu Lạng Sơn, tiên hẹn gặp lại nhau trong đêm trăng sáng trên Hồ Tây, Thăng Long. Đến hẹn, Trạng Bùng cùng mấy người bạn thơ trong thuyền lên bán đảo Tây Hồ. Giai nhân, danh sĩ trùng phùng, tiên trần gặp gỡ, xướng họa thi ca, họ cùng vịnh bài thơ Tây Hồ ngự quán mà nay vẫn còn lưu truyền.  Tiên chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm, và đó chính là Bà Chúa Liễu.

Tam quan vào cổng Phủ Tây Hồ đắp đao lửa, mái làm giả ngói ống, dưới diềm khắc 4 chữ Hán Phong đài nguyệt các (Đài gió gác trăng), câu đối hai bên trụ nói về sự tích Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh.

Qua tam quan là sân phủ rộng rãi chạy sát hồ nước. Trong sân phía bên trái có Lầu Cậu, phía bên phải có Lầu Cô, tả dương hữu âm, tả phù hữu bật.

Phủ chính có quy mô kiến trúc lớn, mặt trước Phủ có cửa tam quan 2 tầng, mái giữa có ghi Tây Hồ hiển tích (Dấu để Tây Hồ). Bốn cánh cửa giữa phần trên chạm tứ quý, phần dưới chạm tứ linh, giữa chạm đào thọ.

Kế tiếp là phương đình gồm 2 tầng, 8 mái. Nhà tiền tế, hậu cung xây sát sau phương đình. Kế đến là Điện Sơn Trang 3 tầng, 8 mái cong, lòng nhà có 2 tầng, tầng trên thờ Quan Âm, tầng dưới là 3 động Sơn Trang chiếm 3 gian; khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu…

Phía sau hiên tam quan là tiền đường. Tiền đường có kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thiềm, tám mái cao vút lên như một vọng lâu. Đây là lối kiến trúc lâu quán của Đạo giáo, cư cao lâm hạ quan sát tứ phương. Phía ngoài tiền đường, ở trên cao là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế. Sau tiền đường là trung đường xây ba gian đơn giản, tường hồi bít dốc, chắc khỏe. Chính giữa là ban thờ Tam Vị Thánh Mẫu bằng bài vị. Phía bên tả treo quả chuông lớn, phía bên hữu treo chiếc trống lớn theo đúng quy tắc tả dương hữu âm, tả chung hữu cổ.

Nơi tôn nghiêm nhất của phủ Tây Hồ là mật cung – cung cấm. Mật cung xây hai gian thờ dọc, kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thềm, thấp hơn so với trung đường và bái đường, tạo cảm giác ấm cúng thần bí, theo quy luật âm dương của kiến trúc tiền tôn hậu ty, tiền động hậu tĩnh, tiền náo nhiệt hậu tĩnh túc.

Đáng chú ý nhất trong các điện thờ Mẫu thường có ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn, là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (Thủy), là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa, là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. (Thu Hà, 2015)

Có tài liệu ghi (không rõ nguồn) trong tam Mẫu, đệ nhất là Mẫu Liễu Hạnh, đệ nhị là Mẫu Thượng Ngàn (bà Chúa rừng), đệ tam là Mẫu Thoải (Bà chúa nước).

Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người.

Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ 19, 20 như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: Thiên tiên trắc giáng (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: Mẫu nghi thiên hạ (làm mẹ của cả thiên hạ).

phủ việt

Có nghĩa búa rìu, chỉ lời chê trách nghiêm khắc.

Theo lời tự sách Xuân Thu chính nghĩa của Khổng Dĩnh Ðạt (Ðường), Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu chép việc nước Lỗ ngụ lời bao biếm, sự khen chê cốt ngụ ở chỗ dùng. Có khi chỉ vì một chữ ngụ ý chê (biếm) mà thành tiếng xấu ngàn đời, một chữ ngụ ý khen (bao) mà được tiếng thơm muôn thuở. Vì vậy, người đời sau khi bàn kinh Xuân Thu có nói: Nhất tự chi bao vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm nhục ư phủ việt (Một chữ khen vinh hơn được áo cổn hoa vua ban, một chữ chê nhục hơn phải tội búa rìu).

Hồng Ðức Quốc âm:

Châm chước miện thiền dòng một phép
Quyền hàn cổn việt rạng muôn đời.

Phục Ba

Chinh phụ ngâm:

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Đến Man Khê bàn sự Phục Ba.

Về Giới Tử, xem mục: Hàn thực; về Phục Ba, xem mục: Mã Viện.

Phục Hy

Phục Hy hay Tử Hoa (chữ Hán: 伏 羲) (4486–4365 tCN), còn được gọi là Phục Hi thị 伏 羲 氏, Mật Hy 宓 羲, Bào Hy 庖 羲, Bao Hy(包 羲, Hy Hoàng 羲 皇, Hoàng Hy 皇 羲 hoặc Thái Hạo 太 昊, vốn là một vị thần của người Trung Hoa. Ông tạo nên ảnh hưởng trong các thần tích Trung Hoa, thường được xem là người đầu tiên và đứng đầu trong các thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế của lịch sử Trung Hoa.

Ngoài Phục Hy, danh sách Tam Hoàng thường còn có Thần Nông và Nữ Oa. Theo quan niệm cổ của người Trung Hoa, Phục Hy là anh trai của Nữ Oa Thánh nhân.

Trong văn hóa Trung Hoa, ông là một hình tượng lớn và nổi tiếng vì người Trung Hoa cho rằng Phục Hy là người sáng lập của văn minh Trung Hoa. Ông được cho là người phát minh ra chữ viết, nghề đánh bắt cá, và bẫy thú. Tuy nhiên, một nhân vật huyền thoại khác là Thương Hiệt 倉 頡, cũng được coi là người phát minh ra chữ viết.

Sách Bạch hổ thông nghĩa 白 虎 通 義 của Ban Cố (32–92), thời đầu của nhà Hậu Hán, viết về tầm quan trọng của Phục Hy như sau:

“  Thời đầu sơ khai, xã hội còn chưa có đạo đức hay trật tự xã hội. Người chỉ biết đến mẹ, không biết cha. Khi đói, người ta tìm thức ăn, khi thỏa mãn, người ta vứt đồ còn lại. Họ ăn thịt cả lông, uống máu, và che thân bằng da thú và vỏ cây. Rồi Phục Hy đến, nhìn lên ngắm trời, nhìn xuống ngắm đất.

“  Ông hợp chồng với vợ, sắp đặt ngũ hành, và đề ra luật lệ cho con người. Ông đề ra bát quái, để thu tóm sự thống trị thiên hạ.”

Quan Âm / Quan Âm Bồ tát / Quán Thế Âm Bồ tát

Xem: Bồ tát Quán Thế Âm.

Quan Âm Thị Kính

Còn có tên Quan Âm tân truyện, là một truyện thơ Nôm Việt Nam. Ấn bản của Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, gồm 786 câu lục bát.

Theo Wikipedia_Quan Âm Thị Kính, từ lâu, truyện thơ Quan Âm Thị Kính được xem là của tác giả “khuyết danh”, nhưng hiện nay có hai giả thuyết như sau:

  • Theo nghiên cứu của Hoa Bằng, tác giả của truyện thơ này là Nguyễn Cấp (? – ?), một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỷ 19, người Huyện Thọ Xương; nay thuộc Hà Nội. Vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ Nguyễn Công Trứ bấy giờ đang làm Tham tán quân vụ ở Lạng Giang che chở, nên ông đến ẩn tu tại đây. Tác phẩm Quan Âm Thị Kính, được ông sáng tác vào lúc cuối đời, thể hiện phần nào tâm sự u uất của ông.
  • Theo Gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh do Dương Xuân Thự cung cấp, truyện Quan Âm Thị Kính do Đỗ Trọng Dư (1786–1868) sáng tác. Ông là người xứ Kinh Bắc, nay thuộc Tỉnh Bắc Ninh. Khi làm Tri phủ Quốc Oai, ông bị kiện là thu tiền của dân không hợp lệ nên bị bãi chức, phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông viết Quan Âm Thị Kính để gửi gắm lòng mình. Năm 1876 con ông là cử nhân Đỗ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948 tác phẩm (bản bằng chữ Quốc ngữ) được in ra (trên bản in đề rõ là của Đỗ Trọng Dư).

Đề cập đến vấn đề tác giả, GS. Nguyễn Huệ Chi có ý kiến: “Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai người, Nguyễn Cấp vả Đỗ Trọng Dư, đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính… Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng Dư là người soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện còn là vào năm 1868.

Tóm tắt nội dung:

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông, được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ, thấy một sợi râu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể, nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ.

Tình ngay lý gian, không sao giãi bày được nỗi oan, Thị Kính cắn răng chịu tủi nhục, quay về nhà cha mẹ. Nhưng rồi nỗi oan khổ chẳng biết thổ lộ cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Đang đêm, nàng cắt tóc, cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng oan, bởi thiên hạ đồn là nàng bỏ nhà theo trai!

Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu. Sư cụ không hề biết nàng là gái, nên nhận nàng cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm.

Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ, dụ dỗ “thầy tiểu” Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt, cô ta nên khai liều bào thai là của Kính Tâm. Vì thế Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo, nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này. Sư cụ thấy “chú tiểu” bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng xin nộp phạt thay. Dù thương xót Kính Tâm, nhưng vì sợ ô danh chốn thiền môn nên sư cụ phải để Kính Tâm ra ở ngoài mái tam quan.

Thị Mầu sinh con trai, đem đứa bé bỏ trước cổng chùa. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng. Ngày ngày, Kính Tâm phải bế đứa bé đi xin sữa khắp đầu làng cuối xóm trong sự cười chê của người đương thời. Ba năm sau, Kính Tâm yếu hẳn đi, trước khi mất, viết một lá thư dặn đứa bé giao lại cho cha mẹ mình. Đứa bé vội lên chùa trên báo cho sư cụ. Lúc đó, mới hay Kính Tâm là phụ nữ. Khi lá thư của nàng về đến quê thì mọi người biết nàng không phải là gái giết chồng. Nỗi oan tình của Thị Kính từ đó được tỏ, nàng được về cõi Niết bàn, hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính, nhưng vẫn còn đọng lại một điều gì đó quá nặng nề với người đời.

Từ chuyện tích trên, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giải bày được.

Cũng có thành ngữ “oan Thị Mầu” để nói đến việc sai mười mươi nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Mầu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa lại vẫn cho rằng mình… oan!

Vở chèo Quan âm Thị Kính là vở diễn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống.

Vở chèo: Thị Mầu lên chùa

Video trình diễn sống, NSƯT Thu Huyền:
https://www.youtube.com/watch?v=A3fMAoVyfZY

Vở cải lương Quan Âm Thị Kính – Phượng Trang

MV, trích đoạn, NSƯT Thanh Ngân:
https://www.youtube.com/watch?v=MnfN7EFf2cE

Quan Âm Tống Tử

Quan Âm Tống Tử là một vị Bồ tát được nhiều gia đình thờ phụng, được tin rằng Ngài ban con cho những gia đình hiếm muộn và Ngài cũng cứu độ cho người hữu duyên mà lầm đưỡng, giác ngộ những ác quỷ có ý định hại người.

Chùa Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự) ở Xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội, lưu giữ một tuyệt tác điêu khắc là pho tượng Quan Âm tống tử, thường được gọi là tượng bà Thị Kính, cao 0,76 m. Tượng này diễn tả người phụ nữ thùy mị, vẻ mặt hơi buồn, ẵm một đứa bé bụ bẫm, kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau chuốt, thoải mái về dáng điệu, sinh động về tinh thần.

quan họ

Xem: hát quan họ.

Quan Trung tam Lý

Ðời nhà Thanh tại Tỉnh Thiểm Tây có ba danh nho: Lý Ngung, Lý Nhân, Lý Bách, đều là bạn tâm giao, nên mọi người gọi Quan Trung tam Lý.

Quan Vũ

Quan Vũ (chữ Hán: 關 羽; phiên âm Anh ngữ: Guan Yu, 162–220), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, nhưng thất bại của ông là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Lưu Bị nói riêng và nhà Thục Hán nói chung.

Theo Tam Quốc chí, Quan Vũ truyện, Quan Vũ tự Vân Trường, người ở Quận Hà Đông. Sau có tội bỏ xứ lưu lạc đến Trác Quận. Lưu Bị tập hợp mọi người trong vùng, Vũ với Trương Phi cũng theo hầu. Lưu Bị làm Bình Nguyên tướng, lấy Vũ–Phi làm Biệt bộ tư mã, chia nhau thống lĩnh bộ khúc. Lưu Bị cùng với hai người ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày, mọi thứ đều do Lưu Bị chu toàn, chẳng tị hiềm gian khổ.

Năm 200, Tào Tháo Đông chinh, Lưu Bị thua chạy sang với Viên Thiệu, Tào Tháo bắt được Vũ đem về, phong làm Thiên Tướng quân, ban cho lễ cực hậu. Thiệu sai Đại Tướng quân Nhan Lương đánh Đông Quận Thái thú Lưu Diên ở Thành Bạch Mã, Tào Tháo sai Trương Liêu cùng với Vũ làm tiên phong đánh lại. Vũ trông xa thấy Lương ở dưới lọng chỉ huy, liền ra roi quất ngựa xông tới đâm chết Lương giữa vạn quân, chém lấy thủ cấp rồi quay về, chư tướng của Thiệu chẳng ai dám làm gì, Bạch Mã được giải vây. Tào Tháo liền phong cho Vũ làm Hán Thọ Đình Hầu.

Lúc trước, Tào Tháo thấy Vũ là người hùng tráng, muốn tỏ ý lưu lại lâu dài, mới bảo Trương Liêu rằng: “Khanh hãy lấy cái tình của ta đến ướm hỏi y xem.” Liêu liền lấy ý ấy ra hỏi Quan Vũ. Vũ thở dài nói: “Ta biết Tào công đãi ta rất hậu, nhưng ta đã chịu hậu ân của Lưu tướng quân, thề cùng sống chết, chẳng thể bội ước. Ta thà chết chứ chẳng ở lại được, ý ta muốn lập công để báo ơn Tào công rồi sẽ ra đi”. Liêu đem lời của Vũ về báo lại với Tào Tháo, Tào Tháo cảm nghĩa ấy.

Năm 219, Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, phong Vũ làm Tiền tướng quân, ban cho tiết việt. Năm ấy, Vũ xuất binh đánh Tào Nhân ở Phàn thành. Tào Tháo sai Vu Cấm đến giúp Nhân. Đến mùa thu, có mưa lớn, nước sông Hán ngập mênh mông, bảy cánh quân do Cấm đốc suất đều bị dìm trong nước. Vu Cấm hàng Vũ, Vũ lại chém chết được tướng quân Bàng Đức. Các xứ Lương, Giáp, Lục đều có ý ngấm ngầm hưởng ứng Vũ, kết lập bè đảng, Vũ oai trấn cả Hoa Hạ.

Tào Tháo tính chuyện dời về Hứa Đô để tránh mũi nhọn của địch, song Tư mã Tuyên Vương và Tưởng Tế cho rằng Quan Vũ nếu đắc chí, Tôn Quyền ắt hẳn chẳng chịu yên. Nên sai người khéo léo khuyên nhủ Quyền đánh tập hậu, hứa hẹn rằng sẽ cắt hẳn Giang Nam phong cho Quyền, như thế tự nhiên Phàn Thành sẽ được giải vây. Tào Tháo nghe theo. Nguyên khi trước, Quyền sai sứ đến tác thành cho con trai của mình và con gái Vũ, Vũ chửi mắng nhục mạ sứ giả, không đồng ý hôn sự, Quyền rất tức giận.

Hai người dưới quyền Vũ là Nam Quận Thái thú My Phương ở Giang Lăng, tướng quân Phó Sỹ Nhân ở Công An, vốn có hiềm khích với Vũ, bị Vũ coi rẻ. Vũ xuất quân, Phương–Nhân cung cấp quân tư trang, chẳng đầy đủ kịp thời. Vũ nói rằng “khi trở về sẽ trừng trị”, Phương–Nhân trong lòng lo sợ không yên. Bởi thế khi Quyền ngầm dụ hàng Phương–Nhân, hai người sai người nghênh đón Quyền. Tào Tháo bèn sai Từ Hoảng đến cứu Tào Nhân. Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quý trọng nhau, lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nhắc đến những việc thường ngày, không bàn bạc gì đến việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền lệnh: “Ai lấy được thủ cấp Vân Trường, sẽ thưởng 1.000 cân vàng”. Vũ lo sợ cuống cuồng, hỏi Hoảng rằng: “Đại huynh, sao lại nói như vậy?” Hoảng đáp: “Ấy chỉ bởi việc nước mà thôi.”

Vũ không đánh được, phải dẫn quân lui về. Quyền chiếm được Giang Lăng, bắt sống hết được vợ con tướng sỹ, quân của Vũ tản mát hết cả. Quyền sai tướng đón đường đánh lén Vũ, chém chết Vũ cùng con của Vũ là Bình ở Lâm Thư.

Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào Tháo, Tào Tháo lấy lễ chư hầu mà an táng cho Vũ.

Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa: có nhiều hư cấu về Quan Vũ. Tác giả La Quán Trung muốn nêu bật nét hào hùng của Quan Vũ, nên thuật hai câu chuyện hư cấu Vũ chất vấn ngang ngược về Mã Siêu và Hoàng Trung, chống lại ý của cấp trên là Lưu Bị. Cả hai câu chuyện gây phản ứng ngược: có ý kiến cho rằng khi chất vấn như thế, Quan Vũ vẫn mang tính háo thắng, vô trách nhiệm và vô kỷ luật (Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu chi tiết Vũ đòi rời Kinh Châu vào Ích Châu đánh với Mã Siêu), lại ấu trĩ đến nỗi được khen bộ râu đẹp cũng đủ đắc ý mà quên chuyện so đo tài năng với Mã Siêu.

Về đức độ của Quan Vũ, Hoa dương quốc chí, Ngụy thị Xuân ThuTam Quốc chí_Thục thư _Quan Vũ truyện trích Thục ký ghi câu chuyện sau. Tào Tháo cùng với Lưu Bị vây Lã Bố ở Hạ Bì (Phì). Nhân khi Bố sai Tần Nghi Lộc đến cầu cứu Quan Vũ, Vũ xin Tào Tháo cho mình lấy vợ của Lộc là Đỗ thị làm vợ. Tào Tháo ưng cho. Bố bị Tháo đánh bại, Vũ lại tỏ ý với Tháo về Đỗ thị. Nghe vậy, Tào Tháo đoán người con gái kia hẳn có nhan sắc, bèn bí mật sai người đi triệu về, thấy quả thật đúng như thế. Tào Tháo chiếm nàng làm của riêng. Vũ bất mãn trong lòng.

Việc xin người có quyền lực ban cho (thật ra là ép bức) vợ của một sứ giả đến xin ân huệ quả là vô nguyên tắc, vô đạo đức.

Còn về chiến công, Tam Quốc diễn nghĩa kể 17 tướng địch bị Quan Vũ hạ khi giao tranh, nhưng thực sự chỉ có Nhan Lương và Bàng Đức.

Người ta tự hỏi: Bỏ qua các chiến tích được người đời ca tụng hết mức và thêm tình tiết nài nỉ Tào Tháo ban người vợ của Lã Bố mà La Quán Trung không nêu ra, tài năng quân sự và đức độ của Quan Vũ thật sự còn lại bao nhiêu?

La Quán Trung khéo tô vẽ Quan Vũ thành một tài năng quân sự siêu việt và một đức độ đáng nể, khiến cho qua nhiều thế hệ đền “Võ Thánh” hoặc “Quan Thánh Đế” thờ Quan Vũ (thường có hình ảnh thanh long đao hư cấu và Chu Thương hư cấu) hiện diện nhiều nơi trong các cộng đồng người Hoa. Thật ra theo chính sử Quan Vũ chỉ là một viên tướng võ biền, chỉ khỏe chứ không có mưu mẹo gì, trên thực tế Trương Phi còn khôn ngoan hơn Quan Vũ.

Không những nâng cao Quan Vũ khi còn sống, La Quán Trung còn nâng Vũ lên mức thần thánh qua các sự hiển linh, và qua sự trừng trị tưởng tượng những người làm chết Vũ.

Vì thế, huyền thoại về Quan Vũ lại giảm thêm giá trị.

Quang Khánh

Tên chùa ở Huyện Kim Môn, Hải Hưng. Trong chùa có tấm bia khắc bài thơ nôm đề là Ngự đề Quang Khánh tự, bia dựng năm Hồng Ðức thứ 17 (1486), thác bản thư viện Viện Hán Nôm mang số 11.765. Trước kia có người cho rằng bài thơ này của nữ sĩ Sương Nguyệt ánh, lại có người cho rằng của Lê Thánh Tông.

Chùa còn có tên là “Chùa Mộng” vì nhà sư trụ trì tên là ông Mộng.

quả nhân

Cách vua chúa xưng “quả nhân” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử từ thời Xuân Thu–Chiến Quốc.

Tả Truyện kể: Tống Mục Công (trị vì: 728–720 tCN) quyết nhường ngôi cho cháu thay vì con trai. Năm 720 tCN khi Tống Mục Công ốm nặng, ông cho truyền Đại Tư Mã Khổng Phụ Gia, nói muốn lập con của Tuyên Công là Dữ Di lên nối ngôi, trong khi các quần thần muốn lập Công tử Phùng, con của Tống Mục Công lên làm vua. Lúc đó Tống Mục Công nói: “Hãy phò tá phụng sự Dữ Di lấy xã tắc làm trọng, như vậy dù quả nhân có chết sẽ không hối hận”. Ông còn bắt con trai là Công tử Phùng sang nước Trịnh làm con tin, nhường ngôi cho cháu, con của anh Tuyên Công là Dữ Di chứ không phải con mình. Dù có ý kiến phản đối, ông vẫn quyết định như vậy để báo ơn anh đã nhường ngôi cho mình.

Quả nhân” là tiếng tự xưng khiêm nhường của vua chúa, tự cho mình là người ít đức, hay là người “về đức độ làm chưa được tốt”. Nói là khiêm nhường nhưng thật sự lại là tiếng tỏ rõ uy phong, bởi vì người thiếu thực lực mà tự xưng là “quả nhân” sẽ bị những người có quân đội mạnh hơn trừng phạt vì tội vô lễ!

Quản Lộ

Quản Lộ (chữ Hán: 管 輅; 209 hoặc 210 – 256) là thuật sĩ ở đất Bình Nguyên thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, với nhiều truyền thuyết về những điều kỳ diệu được gán cho ông.

Từ nhỏ Quản Lộ đã yêu thích thiên văn, rất giỏi lý luận, được khen là có “dị tài”. Lên 15 tuổi, Lộ được đọc Kinh Thi, Luận Ngữ rồi đến Kinh Dịch, bộc lộ văn tài, nổi danh là thần đồng. Khi trưởng thành, Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, thuật phong giác, chiêm tinh, âm dương, phong thủy, tướng thuật, thậm chí cả tiếng chim, trăm quẻ trăm trúng, kỹ năng tuyệt đỉnh, được hậu thế phong là Tổ sư của bói toán, xem tướng.

Theo bộ chính sử Tam Quốc chí, Quản Lộ là một nhân vật thần cơ diệu toán vô cùng lợi hại. Lộ có dung mạo xấu xí, dáng vẻ chẳng nghiêm trang mà còn ham rượu, khi ăn uống nói năng thì không để ý thân phận, nên người đời phần nhiều thì yêu thích mà không kính trọng ông. Mặt khác, Lộ hiếu thảo với cha mẹ, hết lòng với anh em, hòa thuận với bạn bè, đều lấy nhân hòa xử thế, trọn đời không có khiếm khuyết; kẻ sĩ dù thích hay không, cũng đều chịu phục ông. Tính Lộ khoan dung, phần nhiều nhẫn nhịn, không chê người ghét mình, không khen người yêu mình, thường muốn lấy đức báo oán.

Quản Lộ phục vụ Ký Châu Thứ sử Bùi Huy, ông này rất hợp ý nên lần lượt thăng Quản Lộ làm các chức Cự Lộc Tòng sự, Trị trung và Biệt giá, đến năm 255, Lộ được làm Thiếu phủ thừa (khoảng tòng tứ phẩm).

Quản Lộ để lại nhiều tác phẩm. Tam Quốc chí_Phương Ký truyện xếp thuật bói toán của Quản Lộ ngang hàng với y thuật của Hoa Đà, thanh nhạc của Đỗ Quỳ, tướng thuật của Chu Kiến Bình, tướng mộng của Chu Tuyên. Qua thông tin trên đây, có thể thấy Quản Lộ thành danh nhờ tiên đoán và cũng xứng đáng là đệ nhất thần cơ diệu toán trong Tam Quốc.

Có nhiều câu chuyện thần kỳ về Quản Lộ mà ta không rõ thực hư ra sao. Dưới đây là một số chuyện.

Gieo quẻ tìm trâu

Khi Quản Lộ còn trẻ, bà lão hàng xóm bị mất trâu mới nhờ ông bói cho một quẻ. Quản Lộ nói: “Bên con sông nhỏ ở phía Bắc nhà của bà, có 7 người đang làm thịt con trâu của bà, sắp chín rồi! Bà mau mau đến, còn có thể tìm được chút da thịt”.

Bà lão theo lời của Quản Lộ vội vã đi tới nơi đó, quả thực thấy 7 người đang đun nước, trâu cũng mổ xong, da và thịt chưa kịp bỏ vào nồi. Bà lão liền kiện lên Thái thú ở nơi đó là Lưu Bân đề nghị bắt giữ 7 người này. Thái thú Lưu Bân hỏi bà lão: “Làm sao bà biết họ trộm trâu của bà?” Bà lão nói: “ Đó là Quản Lộ bói ra giúp tôi” .

Lưu Bân không tin, bèn mời Quản Lộ tới. Ông giấu cái túi đựng con dấu và lông gà rừng vào trong một chiếc hộp, và yêu cầu Quản Lộ đoán xem trong hộp có gì.

Quản Lộ nói: “Một cái bên trong thì vuông, bên ngoài thì tròn, nét chữ năm màu, có ngọc thủ tín, xuất tắc hữu chương. Đây là cái túi đựng một con dấu. Còn cái kia: mỏm núi đá cao, có con chim mình đỏ, cánh đen vàng, kêu báo bình minh, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là lông gà rừng”.

Lưu Bân sửng sốt, liền tiếp đãi Quản Lộ như một vị thượng khách.

Xem tướng đoán mệnh

Có một lần Quản Lộ đến Ngụy đô – Lạc Dương, sau khi gặp được hai vị đại thần Hà Yên và Đặng Dương, cậu của Quản Lộ hỏi: “Cháu xem tướng mạo của Hà Yên, Đặng Dương như thế nào?”

Lộ nói: “Dáng đi đứng của Đặng, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, đứng dậy loạng choạng, như không chân tay, gọi là tướng quỷ táo. Vẻ hỏi han của Hà, hồn không giữ được nhà, máu không còn tươi màu, tinh thần vật vờ, dáng như củi khô, gọi là tướng quỷ u. Nên quỷ táo bị gió bắt, quỷ u bị lửa thiêu, là điềm báo tự nhiên, không thể che được.”

Hơn 10 ngày sau, nghe tin bọn Hà Yên, Đặng Dương bị giết, người cậu mới khâm phục.

Câu chuyện về Quách Ân

Ở Huyện Lợi Tào, Quách Ân mời Quản Lộ đến nhà, tiếp đãi trọng thể, khiến ông bói cỏ thi để tìm hiểu tại sao ba anh em mình đều bị khoèo. Quẻ xong, Lộ nói riêng với Ân rằng: “Quẻ nhắc đến mộ gốc nhà anh, trong mộ có nữ quỷ, nếu chẳng phải bác gái thì là thím của anh. Khi xưa mất mùa đói kém, các anh tham lợi ích là mấy thăng gạo, xô người ta xuống giếng, nghe tiếng kêu the thé, đẩy thêm tảng đá, ghè vỡ đầu ra, cô hồn oan ức đau đớn, tố cáo lên trời.”

Ân chảy nước mắt mà nhận tội, lại hỏi vạ này có hại đến đời sau hay không, Lộ nói không việc gì.

Câu chuyện về người coi ngựa

Vợ của Hoa Dị là con gái của danh thần người Trác Quận tên Lư Dục (con học giả Lư Thực, ? – 193), mắc bệnh, nhiều năm không đỡ. Quản Lộ bói được viên quan coi ngựa đang đến chỗ Lư Dục, sẽ được sung vào đội quân nam chinh sắp đến, có thể chữa bệnh cho Lư thị.

Lư Dục lập tức dâng biểu giữ người ấy lại, đưa đến nhà họ Hoa để chữa trị cho con gái mình. Lư thị được chữa khỏi, Lư Dục tâu xin trừ bỏ thân phận coi ngựa cho người ấy, bổ làm Thái y.

Câu chuyện về Thái thú Chung Dục

Quản Lộ ghé thăm nhà Ngụy Quận Thái thú Chung Dục, anh của Trấn Tây tướng quân Chung Hội (225–264). Dục cậy tài, đem hơn 20 vấn đề tự cho là rất khó trong Kinh Dịch ra hỏi, Lộ nghe gì đáp nấy, nói năng trôi chảy, khiến Dục khâm phục.

Quản Lộ nhân đó nói: “Bói có thể biết ngày sinh – mất của anh.” Dục khiến Lộ bói cỏ ngày sinh, ông nói ra không sai, Dục rất ngạc nhiên. Lộ đề nghị Dục xem nốt ngày mất, ông ta từ chối: “Sống là chuyện tốt, chết là chuyện xấu, buồn vui phân biệt, tôi không thể biết cả, cứ phó mặc trời, không phó mặc anh.”

Sau đó Dục hỏi Lộ: “Thiên hạ đang thái bình phải không?” Lộ nói: “Đương thời bốn chín bay lên trời, gặp đại nhân thì lợi, thần võ dựng nên, vương đạo sáng rõ, sao lo không thái bình?” Dục chưa hiểu lời Lộ, chẳng bao lâu mới nhận ra khi Tư Mã Ý giết Tào Sảng cùng tất cả tộc Tào.

Bói giúp tìm vợ

Ở Lạc Dương, có chàng trai giữa đường lạc mất vợ. Quản Lộ bói, bảo anh ta vào sáng hôm sau, ở trong cửa Đông Dương, tìm người vác con heo sữa, níu lại mà đánh nhau với người ấy.

Chàng trai làm theo, thành ra hai người ẩu đả, khiến con hẻo xổng ra bỏ chạy. Mọi người đuổi theo, con heo chạy vào nhà người ta, xô vỡ cái vò của chủ nhà, người vợ từ trong vò bước ra.

Đoán vật của Gia Cát Nguyên

Gia Cát Nguyên được thăng làm Tân Hưng Thái thú, Quản Lộ đến đưa tiễn. Lúc Nguyên sắp lên đường, tự tay đem trứng én, tổ ong, con nhện đậy lại, khiến Lộ đoán.

Quẻ xong, Lộ nói: “Vật thứ nhất ngậm hơi đợi đổi, nương ở hiên nhà, trống mái nên hình, thong thả mở cánh, đây là trứng én vậy. Vật thứ hai cả nhà treo ngược, cửa ngõ rất nhiều, giấu tinh nuôi độc, đến thu thì hóa, đây là tổ ong vậy. Vật thứ ba chân dài run rẩy, nhả tơ thành màn, giăng lưới kiếm ăn, lợi vào đêm tối, đây là con nhện vậy.”

Người ngồi đấy đều kinh ngạc.

Đoán vật của Lưu Bân

Quan Thái thú ở Quận Bình Nguyên – quê cũ của Quản Lộ – là Lưu Bân lấy túi đựng ấn và lông gà rừng đậy lại, khiến Lộ bói cỏ.

Lộ nói: “Trong vuông ngoài tròn, năm màu nên văn, chứa vật báu giữ điều tín, đem ra dùng thì có phép tắc, đây là túi đựng ấn đấy. Núi cao chót vót, có chim mình đỏ, lông cánh tạp nhạp, hót không bỏ sáng, đây là lông gà rừng đấy.”

Câu chuyện về Triệu Nhan

Tương truyền, một hôm Quản Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đương cày ruộng. Lộ đứng lại bên đường, đứng ngắm một lúc, đoạn gọi lại hỏi: “Này anh kia, dám hỏi quý danh là gì? Anh bao nhiêu tuổi?”

“Tôi họ Triệu tên Nhan, 19 tuổi. Dám hỏi tiên sinh là ai?”

Lộ đáp: “Ta là Quản Lộ đây. Ta thấy trên quầng mắt anh có tử khí. Chỉ còn ba ngày nữa là anh chết. Tiếc thay, gương mặt anh xinh đẹp thế mà không thọ!”

Triệu Nhan nghe nói lo sợ, về ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức chạy theo tìm gặp Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất, kêu khóc: “Xin tiên sinh rủ lòng thương, trở lại cứu mạng con tôi.”

Lộ nói: “Đó là số trời, cầu đảo sao được!”

Ông lão năn nỉ, van lơn: “Già này chỉ có một đứa con, xin ngài cứu cho, kẻo khổ một đời…”

Nói xong, cả hai cha con dập đầu lạy, khóc bù lu bù loa, trông rất bi thiết.

Lộ thấy cha con lão thiệt tình, lòng không nỡ bỏ, mới bảo Triệu Nhan: “Anh hãy về tìm một vò rượu ngon rất tinh khiết với một ít thịt nai thật thơm, ngày mai đem vào núi Nam Sơn, tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy ở trên phiến đá có hai dị nhân ngồi đánh cờ. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, một ông quay về hướng Bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp. Bấy giờ thừa lúc hai vị cao hứng mải mê đánh cờ, anh cứ bày rượu thịt ra mâm dâng lên. Đợi cho ăn uống xong, sẽ lạy khóc mà xin tuổi thọ. Như thế may được sửa sổ lại. Nhưng nhớ kỹ một điều: chớ nói là ta xúi anh nhé!”

Ông lão mời Quản Lộ ở lại nhà mình chờ xem.

Hôm sau, Triệu Nhan cắp nắp rượu ngon, nem thơm, dĩa chén vào núi Nam Sơn. Đi độ năm sáu dặm, quả thấy hai dị nhân đang ngồi đánh cờ trên phiến đá, dưới bóng râm một cây tùng. Triệu Nhan đội mâm rượu đến gần. Hai ông vẫn chăm vào bàn cờ, như không có người đứng bên cạnh. Nhan quỳ xuống dâng mâm lên, đặt trên thạch bàn.

Hai ông mải mê đánh cờ, bất giác đưa tay nâng chén… rồi dần dần vừa đánh vừa ăn uống hết cả rượu thịt một cách ngon lành.

Lúc bấy giờ, Nhan mới khóc òa lên và lạy lục xin cầu thọ. Hai ông giựt nẩy mình nhìn lại. Đoạn ông mặc áo đỏ bảo ông mặc áo trắng: “Hẳn là gã họ Quản xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì phải thương nó.”

Ông áo trắng liền rút quyển sổ trong mình ra, tìm xét, rồi bảo Nhan: “Năm nay mày 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ “cửu” lên trên hai chữ “thập cửu” thì mày sẽ sống đến 99 tuổi. Nhưng phải về báo gã Quản Lộ rằng: từ nay phải chừa đi, chớ có tiết lộ thiên cơ nữa. Nếu không trời sẽ khiển phạt, nghe chưa?”

Ông áo đỏ cũng mở sổ, thêm vào một nét bút. Rồi một cơn gió thơm ngào ngạt bay qua, hai vị tiên biến thành hai con hạc trắng, bay lên trời mất hút.

Triệu Nhan mừng rỡ, về nhà hỏi Quản Lộ về hai vị tiên ông ấy.

Quản Lộ nói: “Ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào; ông áo trắng là ngôi Bắc Đẩu đấy.”

Nhan lại hỏi: “Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông?”

Lộ giải thích: “Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành một. Bắc Đẩu ghi sổ tử, Nam Tào ghi sổ sinh. Nay đã được sửa số tuổi rồi anh còn lo gì nữa!”

Cha con họ Triệu mừng rỡ lạy tạ.

Từ đó, Quản Lộ sợ tội tiết lậu thiên cơ, không dám khinh xuất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.

Quản Lộ và Tào Tháo

Có lần Tào Tháo đột nhiên phát bệnh nặng, thuốc thang thế nào cũng không bớt. Quản Lộ đến nơi được Tháo nhờ gieo quẻ để đoán bệnh. Một lát sau Lộ nói: “Ngài mắc phải ảo thuật của Tả Từ rồi, nhưng không có gì đáng ngại đâu”. Nghe xong, Tháo thở một hơi dài khoan khoái như vừa trút xong một gánh nặng.

Đoạn Tháo nhờ Lộ bói một quẻ để xem việc thiên hạ, Quản Lộ lại gieo quẻ rồi nói: “Ba tám tung hoành, heo vàng gặp hổ. Định Quân hướng Nam, đả thương một chân”.

Tào Tháo lại hỏi về chuyện người thừa kế sau này của mình. Quản Lộ tiên đoán: “Sư tử trong cung, dẹp an thần vị. Vương đạo cách tân, tử tôn cực quý”. Tào Tháo bảo ông nói chi tiết hơn, Quản Lộ trả lời: “Mênh mông số trời, không thể báo trước, tự mình trải nghiệm”.

Sau đó khi đại tướng quân Hạ Hầu Uyên, huynh đệ trong tộc của Tào Tháo, chết trên đỉnh Định Quân, Tào Tháo ngộ ra lời Quản Lộ nói: “Ba tám tung hoành” là năm 24 Kiến An, “Heo vàng gặp hổ” năm đó là tháng đầu tiên của Kỷ Hợi; “Định Quân hướng Nam” là Núi Định Quân ở phía Nam, “Đả thương một chân” là tình cảm huynh đệ của Hạ và Tào. Sau đó, con trai của Tào Tháo – Tào Phi xưng đế, chính là “Sư tử trong cung, dẹp an thần vị.”

Đoán trước vận mệnh của bản thân

Vào một ngày năm 255, Quản Lộ đang ở trong nhà của người em Quản Thần uống trà. Huynh đệ hai người nói chuyện phiếm, người em hỏi ông: “Em thấy Đại tướng Tư Mã Chiêu đối xử với anh rất tốt, sau này anh có thể đại phú đại quý không?”

Quản Lộ thở dài nói: “Chao ôi, Thiên thượng ban cho ta tài trí, nhưng không cho trường thọ. E rằng tới 47, 48 tuổi, không kịp đợi con trai, con gái dựng vợ, gả chồng, ta đã ra đi rồi!”

Quản Thần hỏi: “Tại sao lại như thế?”

Quản Lộ đáp: “Trên trán ta không có cốt trường thọ, mắt vô thần, mũi không thẳng, dưới chân không gót, lưng không dày, bụng không tròn. Đó đều là dấu hiệu của không trường thọ. Lại thêm bản mệnh của ta vào năm Dần, còn sanh vào đêm nguyệt thực. Thiên mệnh vận hành tự có quy luật, không thể tránh khỏi, chỉ là người ta không biết đạo lý đó mà thôi. Cả đời ta đã bói toán cho hàng trăm người, hầu như đều không sai đâu” .

Đúng là tới tháng 2 âm lịch năm sau, Quản Lộ mất, hưởng thọ 48 tuổi.

Quản Ninh

Thông Chí: ông người đất Chu Hư, người Ngụy thời Tam Quốc, tự ấu An, thích sống ẩn dật xa nơi quyền quý.

Quản Ninh chơi thân với Hoa Hâm (157–231, sau này là khai quốc công thần nhà Tào Ngụy. Một hôm, hai người ngồi trên một chiếc chiếu đọc sách thì có một cỗ xe trang hoàng lộng lẫy đi qua cửa. Hoa Hâm bỏ sách chạy ra xem. Quản Ninh rạch đôi chiếc chiếu nói rằng: “Anh ta không phải là bạn nữa rồi”. Từ đó tuyệt giao với Hoa Hâm.

Ông mở trường dạy học, không màng gì đến thế sự. Học trò nhiều người thành đạt, triều đình biết tiếng mấy lần vời ra làm quan, ông đều từ chối không nhận. Ông thường đội mũ đen, mặc áo đơn ngắn, thọ 84 tuổi.

quạt mồ

Theo tích của Trang Tử (369–286 tCN), ông đi chơi về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, cười như nắc nẻ, cười mãi.

Vợ Trang Tử thấy lạ, hỏi chồng: “Mình có việc gì mà cười lắm thế?”

Trang Tử kể chuyện. Chàng vừa đi qua một cánh đồng; một thiếu phụ xinh đẹp, đội khăn tang, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa mọc, đất còn ẩm. Trang Tử lấy làm lạ, dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. “Hay là nàng thương người dưới mồ nóng bức?” Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: “Thưa quý nhân, nàng quạt mồ là nghĩa làm sao?” Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: “Ðây là mồ chồng thiếp. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăng hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô.”

Nghe vậy, vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó: “Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu trơ trẽn đến thế”. Trang Tử tỏ lòng khâm phục vợ. Và chàng muốn thử lòng vợ. Vốn biết pháp thuật, chàng giả vờ chết, trối với vợ: “Mình quàn tôi một trăm ngày rồi hãy chôn”. Vợ chàng tưởng chàng đã chết, quàn trong nhà.

Ðược mươi hôm, Trang Tử cựa mình hóa phép thành một chàng trai trẻ đẹp, hào hoa. Chàng thư sinh nhận mình là học trò thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: “Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô cho ở lại mấy hôm”. Vợ Trang Tử vừa thấy chàng, đã đem lòng quyến luyến; nàng vội nhận lời. Từ đêm ấy, hai bên quấn quýt nhau, không rời nhau được.

Bỗng một hôm chàng ôm bụng, lăn lộn trên giưưòng, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la thảm thiết. Chàng ú ở nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được chàng: lấy sọ người chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chữa bệnh cho người yêu. Trang Tử nhổm dậy và phá lên cười. Người thiếu phụ xấu hổ quá, ngã bệnh, vài hôm sau thì chết.

Trang Tử thấy nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca bài Cổ bồn, bài ca vừa như cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót xa cho thân phận con người: “Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng…! Nhìn nhau lệ chẳng rơi lã chã…! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương…”

Trang Tử hay Trang Chu, đệ tử nổi tiếng của triết gia Lão Tử, có tư tưởng bi quan về cuộc sống con người.

Ca dao:

Thương thay cho kẻ quạt mồ
Hại thay cho kẻ lấy vồ đập săng.

Quản Trọng

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn nghĩa của La Quán Trung, Phan Kế Bính và Bùi Kỷ dịch, có đoạn như sau.

Từ Thứ ghìm ngựa nói với Huyền Đức: “Lúc tôi ra đi, ruột rối bời bời, quên bẵng đi một việc: Trong vùng này có một bậc kỳ tài ở tại Long Trung, cách Tương Dương hai mươi dặm, sứ quân nên đến mà tìm.”

Huyền Đức nói: “Dám phiền Nguyên Trực mời giúp người đó ra cho Bị.”

Thứ nói: “Người đó không thể gọi ra được, sứ quân phải thân đến mà mời. Nếu được người đó, không khác gì nhà Chu được Lã Vọng nhà Hán được Trương Lương.”

Huyền Đức lại hỏi: “Tài đức người đó so với tiên sinh thế nào?”

Thứ đáp: “Tôi mà so với người đó, khác nào ngựa hèn sánh với kỳ lân, quạ đen sánh với phượng hoàng. Người đó thường ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị. Cứ như ý tôi, Quản, Nhạc còn kém xa. Người đó có tài ngang trời dọc đất, thiên hạ chắc chỉ có một không hai.”

Lưu Bị mừng, hỏi: “Xin cho biết tên họ người đó?”

Thứ đáp: Người ấy quê ở Dương Đô, Quận Lang Nha, họ Gia Cát tên Lượng, tự Khổng Minh”.

Quản Trọng là người như thế nào mà Gia Cát Lượng tự hào so sánh mình với ông ấy?

Quản Trọng (725–645 tCN) có tên thực Di Ngô, tự là Trọng, là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Hoa thời Xuân Thu. Khi ông làm Tể tướng, nước Tề trở thành nước hùng mạnh nhất và Tề Hoàn Công được tôn làm đứng đầu Ngũ bá.

Đường tiến thủ

Quản Trọng người Dĩnh Thượng (nay là Huyện Dĩnh Thượng, Tỉnh An Huy). Ông có gia cảnh bần khố, được Bào Thúc Nha phát hiện tài năng, được mời vào triều làm đại phu, phò tá Công tử Củ, còn Bào Thúc Nha phò tá Công tử Tiểu Bạch.

Lúc đó nước Tề rất loạn, sau khi Tề Tương Công bị Liên Xưng và Quản Chí Phụ giết chết, Tề Vô Tri lên ngôi, các công tử đều lánh nạn sang các nước khác để chờ thời cơ cướp lấy ngôi vua. Quản Trọng hộ tống Công tử Củ tới nước Lỗ, còn Bào Thúc Nha hộ tống Công tử Tiểu Bạch tới nước Lã (hay nước Cử nếu theo tiểu thuyết lịch sử Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long).

Không lâu nước Tề rơi vào bạo loạn, Vô Tri bị giết, nước Tề rơi vào tình thế không vua. Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch được tin liền lên đường về nước để cướp ngôi. Khi hai đoàn gặp nhau trên đường, Quản Trọng muốn để Công tử Củ làm vua nên bắn một phát tên vào Tiểu Bạch. Tiểu Bạch giả chết rồi vào kinh đô làm vua, tức Tề Hoàn Công.

Khi lên được ngôi vị, Tề Hoàn Công liền bảo nước Lỗ giết Công tử Củ và bắt giam Quản Trọng. Tề Hoàn Công muốn Bào Thúc Nha làm Tướng quốc, giúp ông quản lý đất nước. Bào Thúc Nha cho rằng mình không có đủ năng lực, nên dốc sức tiến cử Quản Trọng đang bị giam ở nước Lỗ. Tề Hoàn công nói rằng: “Người này bắn ta một tên, mối thù này ta chưa quên, mũi tên ta vẫn còn giữ, làm sao có thể dùng hắn được? Đợi hắn về đây, ta sẽ xé hắn ra trăm nghìn mảnh”. Bào Thúc Nha đáp “Dĩ nhiên vì Công tử Củ, ông ta đã bắn quân thượng, bây giờ nếu quân thượng trọng dụng ông ấy, ông ấy sẽ vì quân thượng mà đem mũi tên đó bắn cả thiên hạ! Chính những kẻ như thế mới đáng là trung thần.”

Tề Hoàn Công tươi ngay nét mặt, như hiểu được sự kỳ diệu của lòng người, nói: “            Nếu khanh không nói, thì ta đã nghĩ đến điều oán hận nhỏ nhen mà quên cả đại sự.”

Bảo Thúc Nha lại giới thiệu thêm: “Có năm điều tôi không bằng được Quản Di Ngô: Thứ nhất: rộng rãi mềm mỏng, ra ơn với dân, tôi không bằng được. Thứ hai: lấy trung tín mà mua lòng bá tánh, tôi không bằng được. Thứ ba: trị nước không sai giềng mối, tôi không bằng được. Thứ tư: chế lễ nghĩa ra khắp bốn phương, tôi không bằng được. Thứ năm: cầm dùi thẳng đứng giữa ba quân giục lòng quân sĩ, tôi không bằng được.”

Tề Hoàn Công nói: “Nếu Quản Di Ngô là kẻ có tài thì khanh đòi vào yết kiến, để ta xem thư tài học vấn của Quản Di Ngô đến bực nào.”

Bảo Thúc Nha nói: “Người hèn không dám gần gũi với kẻ sang, kè sơ không dám sánh với người thân. Nếu Chúa công muốn dùng Quản Di Ngô thì phải cho va làm đến chức Tướng quốc, đối đãi như sư phụ, thì con người tài ấy mới đem hết sở năng của mình mà hiến cho Chúa công được.

Tề Hoàn Công nói: “Theo ý của khanh thì ta phải làm cách nào để triệu Quản Di Ngô?”

Bảo Thúc Nha nói: “Quản Di Ngô là bậc phi thường trong thiên hạ. Các bậc Tiên vương thuở xưa muốn được người hiền phải thân hành đem lễ vật đến cầu. Lúc người hiền đã về triều thì phải để ăn chung một bàn, ngồi chung một chiếu. Xin Chúa công hãy noi gương ấy để thiên hạ thấy Chúa công là người biết quý kẻ hiền sĩ.”

Tề Hoàn Công nghe lời, đòi quan Thái bốc đến hỏi ngày lành, rồi thân hành đi đón Quản Trọng. Tề Hoàn Công và Quản Trọng cùng ngồi chung một xe mà về triều. Mọi người đón xem đông đặc, ai nấy đều lấy làm lạ lùng.

Tề Hoàn Công hỏi: “Nước Tề ta vốn là một nước lớn, Tiên quân ta là Hi Công đã làm cho các chư hầu kính nể. Đến đời Tương Công chính lệnh bất thường, đến nỗi xẩy ra tai biến. Nay ta vừa mới lên ngôi, lòng dân chưa định, thế nước chưa yên, nay muốn cho nước mạnh dân an phải làm điều gì trước?”

Quản Trọng nói: “Lễ, nghĩa, liêm, sĩ là bốn điều cốt yếu để trị nước. Nếu thiếu một trong bốn điều đó tai biến sẽ xảy ra. Nếu cả bốn điều đó không có, thì nước sẽ mất.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Nếu đã có bốn điều đó thì dùng cách nào mà trị dân?”

Quản Trọng nói: “Muốn trị dân trước hết phải yêu dân.”

Tề Hoàn Công hỏi: Muốn yêu dân phải làm cách nào?”

Quản Trọng nói: “Yêu dân phải dạy dân lấy đạo thân ái, chăm sóc đời sống hàng ngày cho dân, bớt xâu giảm thuế, làm cho dân giàu. Hễ dân giàu tức là nước mạnh.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Dân giàu, nhưng binh khí, quân cụ trong nước thiếu thốn thì phải làm sao?”

Quản Trọng đáp: “Muốn đủ binh khí, quân cụ thì hình pháp trong nước nên đặt lệ cho chuộc tội: Tội nặng cho chuộc một cái tê giáp, tội nhẹ cho chuộc một cái quy thuẫn, tội nhỏ cho nạp kim khí, tội nghi thì tha hẳn. Kẻ nào tụng lý tương đối thì bắt nộp một bó tên rồi giải hòa. Làm như thế ắt quân dụng không thiếu.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Đã làm như vậy nhưng không đủ dùng thì phải làm sao?”

Quản Trọng nói: “Khai mỏ, đúc tiền, nấu nước bể làm muối, trữ hàng hóa lấy lãi, cắt ba trăm nhà nữ lưu cho các khách buôn bán đi lại tụ họp ở đó mà đánh thuế. Như vậy, công quỹ phải đủ dùng.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Của dùng đã đủ, nhưng quân lính còn ít, không đủ sức mạnh thì làm sao?”

Quản Trọng nói: “Quân không cần nhiều, chỉ cần tinh nhuệ. Mạnh không vì sức, mà cốt ở tinh thần. Do đó, Chúa công muốn có binh mạnh chỉ cần giữ vững lòng quân, rèn luyện kỹ thuật chiến đấu là đủ.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Binh thế đã mạnh, có nên đi đánh các nước chư hầu chăng?”

Quản Trọng đáp: “Chưa nên đánh vội. Làm chủ các chư hầu không phải đem sức mạnh hăm dọa, mà phải đem đạo đức ra chinh phục. Trước hết, phải đặt mình lên một địa vị chính đáng đã, sau sẽ dùng cái địa vị đó mà trấn an các chư hầu.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Làm thế nào để đặt mình vào địa vị chính đáng?”

Quản Trọng đáp: “Danh chánh ngôn thuận là ý muốn của mọi người. Các chư hầu đều có bổn phận phải tuân vương mạng. Vậy trước tiên, Chúa công phải kính trọng nhà Châu và bắt các chư hầu cũng phải kính trọng như mình.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Rồi làm thế nào để trấn an các chư hầu?”

Quản Trọng đáp: “Phải đem đạo đức mà giao hữu với họ. Đem tất cả các đất đai đã chiếm được trả cho họ để tỏ ra mình không tham lam, lại đem lễ vật đến khắp nơi cầu người hiền đem về nước mà dùng. Nước chư hầu nào bị loạn tặc, đem quân đến cứu. Làm như vậy nước nào không mến phục.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Xưa nay đất rộng, dân đông là biểu hiệu cho nước giàu mạnh mà khanh lại bảo không nên đem quân lấn đất giành dân thì làm sao cho nước hùng?”

Quản Trọng nói: “Đem sức mạnh chiếm đất cũng chỉ chiếm được một phần nhỏ nào thôi, vì chiếm rồi còn phải giữ, nếu không đủ sức giữ sẽ bị mất. Còn đem đạo đức mà chiếm đặt thì đặt không cần phải giữ, do đó có thể chiếm bao nhiêu cũng được.”

Tề Hoàn Công cùng Quản Trọng nói chuyện trong ba ngày đêm, mà không biết chán.

Tề Hoàn Công lấy làm đắc ý, phong cho Quản Trọng làm Tể tướng. Quản Trọng từ chối không nhận.

Tề Hoàn Công nói: “Bởi ta muốn theo sách lược của khanh nên phải dùng khanh bỉnh chánh, cớ gì khanh lại từ chối?”

Quản Trọng nói: Không phải sức một cây gỗ có thể làm nên một nhà lớn, không phải sức một giòng nước tạo nổi một bể cả. Nếu Chúa công đã có chí lớn thì nên dùng đến năm kiệt sĩ.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Năm kiệt sĩ ấy là ai? Tài năng như thế nào?”

Quản Trọng nói: “Có tài giao thiệp, biết giữ lễ phép thì tôi không bằng Thấp Bằng, xin cho Thấp Bằng làm Đại Tư hanh. Có tài khai khẩn, biết cách trồng trọt thì tôi không bằng Ninh Việt, xin cho Ninh Việt làm Đại Tư điền. Có tài luyện tập quân sĩ, khiến cho người ta quên chết thì tôi không bằng Thành Phủ, xin cho Thành Phủ làm Đại Tư mã. Có tài xử đoán, khiến người ta khỏi bị hàm oan, thì tôi không bằng Tân Tu Vô, xin cho Tân Tu Vô làm Đại Tư lý. Có tính cương trực, thấy điều trái tất phải nói ngay, thì tôi không bằng Đông Quách Nha, xin cho Đông Quách Nha làm Đại Giám quan. Chúa công trọng dụng năm người ấy ắt trong nước được cường thịnh.”

Tề Hoàn Công nghe theo lời Quản Trọng phong chức cho năm người ấy, và quyết định phong cho Quản Trọng làm Tướng quốc.

Tề Hoàn Công rất khâm phục Quản Trọng, hơn nữa ông còn rất thẳng thắn. Tề Hoàn Công lại hỏi: “Ta bình sinh có tánh ưa săn bắn lại thích nữ sắc, chẳng hay hai điều ấy có hại đến nghiệp bá chăng?”

Quản Trọng đáp: “Đã rõ được nhược điểm của mình tất không hại.”

Tề Hoàn Công hỏi: “Thế thì điều gì mới có hại cho nghiệp bá?”

Quản Trọng nói: “Không biết nhân tài là hại. Biết nhân tài mà không dùng là hại. Dùng nhân tài mà không dám phú thác việc lớn là hại. Phú thác việc lớn mà để kẻ tiểu nhân xen vào là hại.”

Tề Hoàn Công khen phải.

Từ đó công việc triều chính đều phó thác cho Quản Di Ngô, lại gọi Quản Di Ngô bằng Trọng phụ. Hễ có việc gì lớn, đều hỏi ý kiến Quản Di Ngô trước. Tề Hoàn Công lại cấm người trong nước không được gọi Quản Di Ngô, mà chỉ gọi là Quản Trọng. Vì Trọng là tên chữ, còn Di Ngô là tên tộc.

Quản Trọng cải thiện sức mạnh nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách. Về mặt chính trị, ông tập trung hóa quyền lực và phân chia nước thành nhiều làng, mỗi làng tập trung vào một lĩnh vực thương mại riêng. Thay vì dựa vào giai cấp quý tộc để thu thuế như truyền thống trước kia, ông áp dụng tiền thuế trực tiếp tới mỗi đơn vị làng xã. Ông cũng phát triển một biện pháp lựa chọn người tài mới và có hiệu quả hơn. Dưới thời Quản Trọng, nước Tề chuyển từ chế độ quan liêu quý tộc sang chế độ quan liêu chuyên nghiệp. Quản Trọng cũng đề xuất nhiều cải cách kinh tế quan trọng. Ông đưa ra một biểu thuế thống nhất. Ông cũng sử dụng nguồn lực nhà nước để khuyến khích sản xuất muối và sắt; các nhà sử học thường cho Quản Trọng là người đề xướng ra sự độc quyền nhà nước về hai mặt hàng này.

Ông nổi tiếng với chiến lược không đánh mà thắng mà người Trung Hoa gọi là Diễn biến hòa bình, đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.

Năm 681 tCN, vào năm thứ nhứt của Ly Vương nhà Châu, Tề Hoàn Công sau một thời gian giao việc triều chính cho Quản Trọng, thấy trong nước dân tình yên ổn, binh lương dồi dào, bèn hỏi Quản Trọng: “Trước kia nước Tề chưa đủ sức, trong thì việc triều chính chưa an, ngoài lòng dân chưa ổn, nay đã tạm yên, chẳng hay cái mộng làm bá-chủ các nước chư hầu đã nên thực hiện chưa?”

Quản Trọng đáp: “Các chư hầu còn nhiều nước mạnh hơn Tề. Như phía Nam có Sở phía Tây có Tần và Tấn. Tuy nhiên, nước nào cũng chỉ mạnh về binh lực chứ không phải mạnh về chính nghĩa, vì họ không biết tôn vua nhà Châu. Nhà Châu dẫu có suy yếu, vẫn là Thiên tử chung của thiên hạ, thế mà từ khi quân Trịnh bắn vua Hoàn Vương, quân Vệ chống vua Trang vương, các nước chư hầu khinh khi bỏ cả việc triều cống. Thậm chí ở nước Sở, Hùng Thông tiếm xưng Vương hiệu nước Trịnh, nước Tống giết vua mà không ai dám hỏi tội. Nước Tề ta, muốn mạnh phải nắm cho chính nghĩa, luôn luôn thi hành theo mệnh lệnh thiên triều. Nay nước Tống tuy vừa giết được Nam Cung Trường Vạn, khôi phục ngôi vua, nhưng Tống hầu vẫn chưa được các nước công nhận. Chúa công nên vào triều Châu, xin Vương mệnh, hợp các chư hầu, công nhận vua nước Tống, còn các chư hầu nào suy yếu ta nên giúp đỡ, các chư hầu nào ngang ngược, ta nên họp sức nhau mà vấn tội. Làm như thế các chư hầu phải tùng phục Tề, không cần phải dùng đến binh lực.”

Tề Hoàn Công nghe nói rất hài lòng, vội sai sứ vào triều Châu, xin phép được tổ chức hội họp. Ly Vương thuận lòng.

Sứ giả trở về báo lại với Tề Hoàn Công.

Tề Hoàn Công phụng mệnh Thiên tử, bố cáo khắp chư hầu triệu tập các nước họp nhau ở Tề.

Tề Hoàn Công lại hỏi Quản Trọng: “Lần nầy hội chư hầu ta phải dùng bao nhiêu binh sĩ?”

Quản Trọng nói: “Hội họp là để bàn luận với nhau, nếu dùng đến quân sĩ tỏ ra dùng sức mạnh áp-bức, làm sao mọi người phục?”

Tề Hoàn Công theo lời sai cất một cái đài cao ba trượng, chính giữa lập bàn hương án để vọng bái Thiên tử, còn chung quanh bày trí các lễ vật đâu đó rất uy nghi.

Đến ngày hội, vua bốn nước Tống, Trần, Châu, Sái thấy Tề không dùng đến quân sĩ, nhìn nhau khen thầm: “Tề hầu quả đem lòng chân thật mà đối đãi với chúng ta.”

Bốn nước đều bàn với nhau lui quân ra ngoài cách mười dặm.

Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: “Nay chư hầu không hội đông đủ, có nên hoãn lại một ngày khác chăng?”

Quản Trọng nói: “Nay đã có bốn nước đến, như vậy cũng có thể bàn luận được, nếu hẹn lại tức là thất tín. Mà đã thất tín thì sau nầy mời sẽ không ai đến.”

Sáng hôm ấy, Tề Hoàn Công thay mặt vua Châu, đứng ra tuyên bố: “Tôi phụng mệnh Thiên tử, mời quý quốc đến đây, mục đích gặp nhau thảo luận việc chính trị, chỉnh đốn các cơ cấu tương quan giữa các chư hầu. Được như thế, chúng ta mới cùng nhau giữ vững đạo vua tôi và sự công bình trong thiên hạ. Muốn làm được việc đó, điều cần thiết chúng ta phải tôn lên một nước làm minh chủ, có quyền hạn điều khiển các nước chư hầu.”

Các nước chư hầu thì thào bàn bạc với nhau hồi lâu, cuối cùng đồng thanh nói: “Chỉ có nước Tề mới đảm đương nổi nhiệm vụ đó.”

Tề Hoàn Công đôi ba phen từ chối, rồi mới bước lên đàn chấp nhận làm bá chủ các chư hầu, là người đầu tiên trong Xuân Thu Ngũ Bá. Đó là nhờ kỹ trị của Quản Trọng giúp nước Tề trở nên hùng mạnh khiến các chư hầu vị nể, và tài khéo léo trong việc triệu tập chư hầu để họ chấp nhận Tề Hoàn Công làm bá chủ.

Quản Trọng vốn có một người tiểu thiếp tên Tĩnh nương, nàng nầy tuy phận quần thoa, nhưng lại thông minh học rộng. Vì vậy Quản Trọng đi đâu cũng đem nàng theo hầu. Trong một chuyến đi như thế, Tĩnh nương nhờ kiến thức về thi ca nên phát hiện một người chăn trâu có ý xin ra làm quan. Quản Trọng hỏi tung tích, người chăn trâu tự giới thiệu là Ninh Thích. Quản Trọng thử thách trình độ học thức. Ninh Thích ứng đáp rất rành mạch.

Quản Trọng viết một phong thơ, trao cho Ninh Thích.

Ninh Thích lãnh thơ, rồi ở nơi núi Dao Sơn chăn trâu như cũ.

Cách ba ngày sau, Tề Hoàn Công kéo đại binh đến, và phát hiện ra Ninh Thích, thấy đó là một người khí phách, lập tức phong cho Ninh Thích làm quan Đại phu, lại khiến cùng với Quản Trọng coi việc quốc chánh.

Như vậy, nước Tề có thêm một nhân tài quan trọng là nhờ ba người: Tĩnh nương có kiến thức, Quản Trọng có nhận thức, và Tề Hoàn Công có lòng trọng dụng nhân tài.

Đánh giá

Nguyễn Hiến Lê (2017) có đánh giá như sau.

“ Nước Tề ở miền Sơn Đông ngày nay, thời đó đã chiếm được hết bán đảo Sơn Đông, nên đất đai rất rộng, có núi, có biển, có nhiều tài nguyên (quan trọng nhất là muối), kinh tế và thương mại thịnh nhất: chở đồng, sau này thêm sắt nữa, từ phương nam lên bằng thuyền theo các con sông, để bán cho cả miền bắc Trung Hoa; muối thì bán cho cả miền Đông Trung Hoa. Tề lại đúc những đồng tiền đầu tiên. Nhờ vậy mà Tề giàu nhất, và hễ giàu thì văn hóa cũng cao, vượt hẳn nhà Chu.

“ Những tiến bộ đó phần lớn là công lao của Quản Trọng, nhà chính trị có tài nhất thời Xuân Thu, được vua Tề rất tin và trọng. Tuy Quản Trọng xuất thân trong giới bình dân mà Hoàn công dùng làm tướng quốc, quyền hơn cả các “cha anh” của nhà vua.

“ Quản Trọng biết trọng lễ nghĩa liêm sỉ, lại có sáng kiến hiệu triệu các chư hầu trước sau chín lần (hay mười một lần) thề với nhau (minh thệ) cùng “tôn vương” (tức tôn vua Chu) và “nhương di” chống sự xâm lăng của các “ngoại tộc” (các dân tộc ở ngoài).

“ Ông đem quân đuổi bộ tộc Địch, giúp Vệ lập lại được nước, nên được chư hầu tin. Nước Sở vì bội lỗi thề, ông họp chư hầu đem quân phạt Sở. Như vậy, bất chấp thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu, nhưng ông có công với Trung Hoa, cho nên đời sau, Khổng Tử cũng phải khen ông trong Luận ngữ: “Quản Trọng giúp Hoàn công, khiến Hoàn công làm bá các chư hầu, thiên hạ quy về một mối, nhân dân đến ngày nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì ngày nay chúng ta phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như người Di Địch) rồi.”

“ Tài chính trị của ông ở điểm ông đã lập ra lệ “minh thệ” (ăn thề) và giữ nó được suốt đời. Không ai sợ thiên tử nữa thì ông lợi dụng lòng sợ quỷ thần của mọi người. Các vua chư hầu hoặc các đại diện của họ tới dự “minh thệ” thì không ai được xâm phạm, vì được quỷ thần che chở rồi; và các chư hầu phải trừng trị kẻ phản ước.

“ Giữa các chư hầu liên minh, có tình anh em với nhau, giúp đỡ nhau, chết thì phải phúng điếu.

“ Lễ nghi rất tôn nghiêm. Các chư hầu họp nhau trên một cái “đàn”, người ta lớn tiếng khấn quỷ thần, đọc bản văn lời thề, giết một con trâu rồi chôn bản văn đó với xác con trâu hay máu của nó. Mỗi người quệt vào môi một ít máu trâu rồi lớn tiếng thề.

“ Cần nhất là phải giữ chữ tín, thì các chư hầu mới đoàn kết và xã hội mới khỏi loạn. Có thể vì vậy mà sau này Khổng Tử đề cao đức tín, đặt nó gần ngang hàng với nhân, lễ, nghĩa, coi nó là đức cần thiết của người quân tử (người trị dân). Đó là một nét đặc biệt của đạo Khổng, và một số học giả phương Tây ngày nay cũng nhận rằng không dân tộc nào trọng đức tín bằng dân tộc Trung Hoa.

“ Quản Trọng đủ tư cách, tài năng để bắt các chư hầu giữ chữ tín (ông họp chư hầu để phạt Sở, nước bội tín)”.

quạt nồng ấp lạnh

Do chữ đông ôn hạ sảnh: có nghĩa đắp chăn mùa đông, quạt mùa hè, ý nói đạo làm con phụng dưỡng cha mẹ.

Lễ ký: Phàm theo lễ kẻ làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên chỗ nằm, buổi sớm hỏi thăm xem cha mẹ.

Nhị thập tứ hiếu: Hoàng Hương mới lên 7 tuổi mà biết phụng dưỡng cha mẹ. Cậu còn bé, không làm công việc nặng nề để giúp cha mẹ được thì vào mùa hạ cậu quạt cho cha mẹ mát, mùa đông ấp chỗ ngủ cho cha mẹ được ấm.

Đoạn trường tân thanh:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

quăng thoi

Ý nói tác động của dư luận làm siêu lòng người.

Ngữa vận: Tăng Sâm là bậc đại hiền, một lần có người trùng tên với ông làm sự giết người, người ta tưởng chính là ông bèn tìm đến báo tin cho mẹ ông biết. Hai người đến báo, bà vẫn điềm nhiên ngồi dệt cửi vì tin là con mình không khi nào như thế. Nhưng đến lần báo thứ 3, bà cũng phải ngờ con mình mà quăng thoi đứng dậy.

quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu

Câu trên có nghĩa là “Vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chịu chết là bất trung; cha bắt con chết, con không chịu chết là bất hiếu”.

Kim Định (2017) cho rằng câu này là của Thái tử Phù Tô (? – 210 tCN), con trưởng của Tần Thủy Hoàng. Còn Nguyễn Đăng Thục (1998) cho rằng của Tống Nho. Tuy nhiên, cả hai tác giả đều không nêu ra tư liệu xuất xứ nào. Do đó, cả hai ý kiến đều chưa được chấp nhận.

Nhưng chắc chắn câu đó không phải của Nho giáo Tiên Tần (trước năm 206 tCN). Trong sách Luận ngữ của Khổng Tử có câu: “Vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. Mạnh Tử (371–289) nói rõ hơn: “Vua coi bề tôi như chân tay, bề tôi sẽ coi vua như tâm phúc; vua coi bề tôi như chó ngựa, bề tôi sẽ coi vua như người đi đường; vua coi bề tôi như đất cỏ, bề tôi sẽ coi vua như giặc thù”. Và ông nói tiếp: “Chỉ nghe giết một người tên Trụ (tức Trụ Vương), có nghe nói giết vua bao giờ đâu”. Tuân Tử (298–238) tuyên bố: “Giết một tên vua tàn bạo có khác gì giết một tên phu xe độc ác”.

Tóm lại, ở giai đoạn Tiên Tần, Nho giáo rất tiến bộ. Cho nên có lẽ câu trên chỉ ra thời sau nhưng chưa biết vào thời nào và của ai.

quân tử cố cùng

Câu trên có ý nói người quân tử đến lúc cùng khốn vẫn giữ khí tiết. Theo Luận ngữ, Vệ Linh Công (trị vì 534–493 tCN), nói: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (Người quân tử lúc cùng vẫn giữ vững khí tiết, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng ắt làm bậy.)

Có một giai thoại về Nguyễn Văn Xiển tức Xiển Bột (sinh vào khoảng 1860). Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đỡ là Án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là Án Tiêu. Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng “tiêu”. Hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội.

Lệnh ban ra khiến Xiển Bột rất ghét quan huyện. Ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan.

Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai.

Quan nổi trận thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám đem quần áo rách đến bán cho quan bao giờ!

Ðợi quan nguôi giận, Xiển mới nói: “Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử…”.”

Quan buột miệng nói:

Quân tử cố cùng, quân tử cùng, quân tử cố
(Quân tử bền lòng lúc cùng quẫn, quân tử cùng quẫn, quân tử bền lòng)

Lấy ý trong Luận ngữ.

Xiển Bột trần tình:

Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm
(Khổng Minh bắt để tha, Khổng Minh tha, Khổng Minh bắt).

Lấy ý trong Tam quốc diễn nghĩa: Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần lại tha.

Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình với lời trần tình của Xiển đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt: Mình mắng nó cùng quẫn, nó xin tha!

Câu của quan khó ở hai chữ “cố” nghĩa nôm là cầm cố, và chữ “cùng” nghĩa nôm là cùng quẫn.

Tài tình của Xiển ở hai chữ “cầm” lấy nghĩa nôm cầm cố như trên, và chữ “túng” nghĩa nôm là túng tiền, vừa đối chữ vừa đối nôm.

Quần Ngọc

Tương truyền nhà thơ Lý Quần Ngọc (813–860) qua Miếu Nhị Phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ, câu đầu là: Hoàng lăng miếu tiền xuân dĩ không, chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là Nga Hoàng và Nữ Anh hẹn sau 2 năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.

Nga Hoàng và Nữ Anh là tên hai người vợ của Vua Thuấn, con gái Vua Nghiêu. Không biết có phải là hai người này không… (Miếu Nhị Phi là miếu thờ hai bà).

quế cung

Nam bộ yên hoa ký: Vua Trần Hậu Chủ (tại vị 582–589) trong lịch sử Trung Hoa có xây cho nàng Trương Lệ Hoa một cung quế, có cửa sổ tròn giống như mặt trăng, giữa sân có một cây quế.

Có sách giải thích rằng gọi là quế cung vì phòng của cung phi ngày xưa thường lát tường bằng gỗ quế để giữ hơi ấm.

Nói chung, quế cung chỉ chỗ ở của cung phi.

quốc hiệu (Việt)

Quốc hiệu của nước người Việt trong lịch sử thay đổi như sau (ghi với thời kỳ và tên người đặt quốc hiệu) theo Wikipedia:

  • 2879–2524 tCN: Xích Quỷ, Kinh Dương Vương của Họ Hồng Bàng
  • 2524–258 tCN: Văn Lang, Hùng Vương thứ I
  • 257–207/179 tCN: Âu Lạc, Thục Phán của Nhà Thục
  • 204–111 tCN: Nam Việt, Triệu Đà của Nhà Triệu
  • 111 tCN – 40: Giao Chỉ Bộ (Bắc thuộc lần 1)
  • 40–43: Lĩnh Nam, Trưng Trắc
  • 43–203: Giao Chỉ Bộ (Bắc thuộc lần 2)
  • 203–544 Giao Châu (Bắc thuộc lần 2)
  • 544–602: Vạn Xuân, Lý Bí của Nhà Tiền Lý    
  • 602– 607: Giao Châu, Quận Giao Chỉ, An Nam, Trấn Nam, Tĩnh Hải Quận (Bắc thuộc lần 3)
  • 905–968: Tĩnh Hải Quân (thuộc Đại Đường và Nam Hán)
  • 968–1054: Đại Cồ Việt, Đinh Bộ Lĩnh của Nhà Đinh
  • 1054–1400: Đại Việt, Lý Nhật Tôn của Nhà Lý
  • 1400–1407: Đại Ngu, Hồ Quý Ly của Nhà Hồ
  • 1407–1427: Giao Chỉ, Nhà Hậu Trần (Bắc thuộc lần 4)
  • 1428–1804: Đại Việt, Lê Lợi của Nhà Hậu Lê
  • 1804–1839: Việt Nam, Gia Long của Nhà Nguyễn
  • 1839–1945: Đại Nam, Minh Mạng của Nhà Nguyễn
  • 1945: Đế quốc Việt Nam, Bảo Đại của Nhà Nguyễn (Nhật thuộc)
  • 1945–1976 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh
  • 1945–1954: (trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp)
  • 1949–1955: Quốc gia Việt Nam, Quốc trưởng Bảo Đại
  • 1955–1975: Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm
  • 1976–nay: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội Việt Nam

Riêng Cao Thế Dung (2019) cho rằng tên nước Việt Nam xuất hiện từ thời cổ. Về quốc hiệu vào thời Hồng Bàng, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, soạn vào khoảng năm 1428-1430, viết: “Trong sách chương của Thiên Vương có gọi Việt Nam, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Nam Bình, ngày nay cũng xưng là Việt Nam” và “Vua Ðế Minh trao cho Kinh Dương Vương làm Việt Nam Vương” (Á Nam Trần Tuấn Khải, Văn hóa số 65-1961).

quốc sắc thiên hương

Có nghĩa sắc nước hương trời. Sắc nước là sắc đẹp nhất nước, hương trời là hương thơm chỉ có trên trời (thế gian không có); ý nói sắc đẹp hiếm có về thể chất lẫn tinh thần. Quốc sắc thiên hương trong văn chương cổ điển Trung Hoa chỉ về cái đẹp của hoa mẫu đơn, lấy hoa mẫu đơn làm tiêu biểu.

Sách Tùng song tạp lục chép: Vua Ðường Minh Hoàng ngự thưởng hoa mẫu đơn trong nội điện, hỏi thị thần: thơ vịnh hoa mẫu đơn của ai hay nhất? Thị thần tâu: có thơ của Lý Chính Phong, trong đó có câu:

Quốc sắc triều hàm tửu
Thiên hương dạ nhiễm y
.

Nghĩa:

Người quốc sắc ban mai hay say rượu (ý nói hoa đỏ)
Mùi thiên hương đêm nhuốm áo khăn (nói về hương thơm)

Mẫu đơn là một thứ hoa thơm, đẹp và quý nhất trong các loại hoa, được gọi là loài hoa vương giả. Cho nên “quốc sắc thiên hương” chỉ một tuyệt sắc giai nhân so sánh với hoa mẫu đơn.

Đoạn trường tân thanh, Mã Giám Sinh nhìn thấy sắc đẹp của Kiều, hắn ca ngợi:

Ðã nên quốc sắc thiên hương
Nụ cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.

Quốc sử Việt Nam

Bộ sách của Đề án “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam (còn được gọi là Quốc sử Việt Nam)” gồm 25 tập thông sử (trong đó, 13 tập Lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ và trung đại, 12 tập thời kỳ cận và hiện đại) và 5 tập Biên niên sự kiện lịch sử (trong đó, 3 tập thời kỳ cổ và trung đại, 2 tập thời kỳ cận và hiện đại).

Bộ bản thảo gồm 25 tập thông sử và 5 tập biên niên sử thuộc bộ Quốc sử Việt Nam được bàn giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 12-11-2020. Dự kiến bộ Quốc sử Việt Nam sẽ được in trong năm 2025.

Đề án bắt đầu được thực hiện từ năm 2015. Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan chủ trì phê duyệt và tổ chức thực hiện, Quỹ Nafosted cấp kinh phí theo hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng.

Gần 300 nhà khoa học thuộc các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy lịch sử trên cả nước, tại các viện nghiên cứu, các trường đại học, tập trung chủ yếu ở Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Tp HCM được huy động tham gia biên soạn bộ Quốc sử Việt Nam đồ sộ này.

GS Phan Huy Lê làm chủ biên bộ Quốc sử Việt Nam cho đến khi qua đời tháng 6-2018, nhưng tên ông vẫn trân trọng được đặt vào vị trí chủ biên bộ sách.

PGS-TS Trần Đức Cường – Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và là một trong các tác giả tham gia viết bộ Quốc sử Việt Nam – cho biết trước khi GS Phan Huy Lê mất, toàn bộ 30 tập của bộ Quốc sử Việt Nam đã hoàn thành bản sơ thảo. Trong đó, mỗi tập đều ghi dấu công lao to lớn của GS Phan Huy Lê. Giáo sư Lê cũng là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ nội dung của bộ sách nên đương nhiên ông vẫn là chủ biên của bộ sách này.

Bộ sách được biên soạn trên tinh thần “kế thừa những bộ sử trước đây, tổng kết và nâng cao được toàn bộ kết quả nghiên cứu của giới sử học cả nước, tiếp thu có chọn lọc thành tựu nghiên cứu của các nhà sử học nước ngoài về lịch sử Việt Nam từ trước tới nay”. Bộ quốc sử cũng đồng thời “có những luận giải mới, những đánh giá phù hợp về những vấn đề khoa học lịch sử đang đặt ra”, “quán triệt sâu sắc quan điểm khoa học, biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể; tôn trọng sự thật lịch sử”. (Thiên Điểu, 2020)

Mỗi tập sử dài 700-800 trang, có nhiều tư liệu mới và đặc biệt cách tiếp cận mới – cách tiếp cận đa bộ môn, liên ngành: khảo cổ học, sử học, dân tộc học, chính trị học, văn hóa học, kinh tế học, tôn giáo học… Trước đây cũng có tính đa ngành, liên ngành nhưng bây giờ được đề cập sâu rộng hơn. Nguồn tư liệu ngồn ngộn được khai thác từ các trung tâm lưu trữ quốc gia, các thư viện của các trường đại học, tư liệu nước ngoài và khai thác từ nguồn điền dã. (Toan Toan, 2020)

Sinh thời, GS Phan Huy Lê luôn nhấn mạnh quan điểm viết sử toàn bộ, toàn diện, khách quan. Vì vậy, đây là bộ quốc sử đồ sộ nhất từ trước đến nay, lần đầu tiên đề cập đến nhiều “khoảng trống lịch sử” vốn được coi là “nhạy cảm”.

Theo PGS Nguyễn Mạnh Hà, thành viên Hội đồng khoa học biên soạn, bộ Quốc sử Việt Nam sẽ viết khách quan về phía bên kia như chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng; chính phủ Trần Trọng Kim; chính quyền Việt Nam Cộng hòa…

Nhận thức như thế đến muộn màng, sau hai bộ Lịch sử Việt Nam (2012) và Lịch sử Việt Nam (2017) trước đó không lâu tốn rất nhiều công sức và tiền thuế của dân nhưng vẫn để lại nhiều khoảng trống, bây giờ phải làm lại.

Thừa nhận Việt Nam Cộng hòa

Ông Nguyễn Mạnh Hà cho biết bộ sử sẽ viết về chính quyền Việt Nam Cộng hòa trên nhiều phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao… và “không né tránh bất cứ vấn đề nào từng diễn ra”. Các sự kiện sẽ được trình bày khách quan thay vì phân chia hai phía “địch” và “ta” như trước đây.

Ông Hà cho rằng nếu chính sử không thừa nhận Việt Nam Cộng hòa thì Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi theo công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, chủ quyền phải được kế thừa liên tục. Trong khi giai đoạn 1954-1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thụ đắc chủ quyền hai quần đảo này.

Năm 1974, khi Trung Quốc nổ súng xâm lược quần đảo Hoàng Sa, các binh sĩ Việt Nam Cộng hòa chiến đấu, nhiều người ngã xuống để bảo vệ đảo. “Thời điểm đó có sự phân chia chế độ chính trị, nhưng những người lính Việt Nam Cộng hòa hy sinh vì Tổ quốc thì phải được ghi vào sách sử”, ông Hà nói.

Để đảm bảo tính khách quan, bộ Quốc sử Việt Nam không dùng các tên gọi mang tính miệt thị như “ngụy quân”, “ngụy quyền”, “địch”, “bù nhìn”, “tay sai”… để chỉ chính quyền Quốc gia Việt Nam hay Việt Nam Cộng hòa. Các danh xưng sẽ được viết đúng như tên gọi từng tồn tại.

Quan điểm này của bộ sử được ông Phạm Đức Bảo, Viện phó Viện Nghiên cứu Chính sách ủng hộ. “Trong đàm phán Paris, chúng ta chấp nhận 4 bên, trong đó có Việt Nam Cộng hòa cùng ký vào hiệp định thì không thể coi họ là ngụy quân, ngụy quyền. Hơn nữa để thúc đẩy hòa giải, hòa hợp dân tộc thì không nên dùng những danh xưng gây chia rẽ”, ông Bảo nói và đề nghị gọi là chính quyền Sài Gòn hoặc Việt Nam Cộng hòa.

Ông Bảo phân tích, ở khía cạnh pháp lý, Việt Nam Cộng hòa được hình thành trên cơ sở Hiệp định Genève (1954). Xét các yếu tố cơ bản như chính phủ, quân đội, thủ đô, quốc kỳ, quốc ca… thì không thể phủ nhận đó là một quốc gia.

Khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 thì ngay sau đó nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Trung Quốc. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lập tức gửi kháng thư đến Liên Hợp Quốc phản đối hành động xâm lược này. (Viết Tuân, 2018)

Chiến tranh biên giới phía Bắc, hải chiến bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa được viết trong quốc sử

GS Vũ Minh Giang, Phó chủ nhiệm đề án Nghiên cứu và biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam, cho biết bộ Quốc sử Việt Nam còn đề cập đến những vấn đề “nhạy cảm” khác, như cải cách ruộng đất. Đảng đã thẳng thắn nhận sai lầm khuyết điểm, việc đưa vào chính sử nội dung này sẽ làm tăng thêm uy tín của Đảng.

Hoặc câu chuyện thuyền nhân Việt Nam, theo ông Giang, trước đây mọi người nói có tác động của chiến dịch tâm lý, phá hoại. “Nói thế không sai, nhưng chưa thỏa đáng. Đó là thời kỳ đất nước cực khó khăn, lạm phát phi mã đến mấy trăm phần trăm; chính trị vẫn còn những vấn đề chưa giải quyết được sau năm 1975; người dân thiếu đói, đời sống khó khăn. Đó là hệ quả tất yếu của câu chuyện thuyền nhân Việt Nam”, GS Giang nói.

Sự kiện Trung Quốc huy động 600.000 quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam từ tháng 2-1979 được nói đến trong bộ quốc sử. Bởi theo GS Giang, cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc ở biên giới phía Bắc là trang sử tiếp nối truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta từ bao đời. Nếu không viết về cuộc chiến này thì truyền thống chống ngoại xâm của Việt Nam có một lỗ hổng lớn, không có lợi trong việc duy trì sức mạnh dân tộc.

Bộ quốc sử còn đề cập toàn bộ quá trình từ khi ông cha ta bắt đầu xác lập chủ quyền trên hai Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và cho đến bây giờ. Những cuộc hải chiến bảo vệ chủ quyền hai quần đảo này được viết có hệ thống. Đó là năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa khi đang được Việt Nam Cộng hòa bảo vệ; cuộc chiến năm 1988 của các chiến sĩ hải quân nhân dân Việt Nam giữ Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, thuộc Quần đảo Trường Sa của Việt Nam. (Viết Tuân, 2018)

Những chủ đề khác

Nhiều “khoảng trống lịch sử” khác như cải cách ruộng đất (1954-1956), Nhân văn – Giai phẩm, vụ xét lại chống Đảng (1963-1968), cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975, sai lầm của miền Bắc trong tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968… đều được viết trong bộ Quốc sử Việt Nam.

Lịch sử của vùng đất ChampPa, Nam Bộ, của 54 dân tộc và lịch sử các tôn giáo… cũng được đề cập khách quan.

quốc triều (Việt)

Ghi chú: Số năm và năm trong các giai đoạn có thể khác biệt đôi chút tùy theo nguồn.

Họ Hồng Bàng, quốc hiệu Xích Quỷ, kinh đô Phong Châu (Huyện Bạch Hạc, Tĩnh Vĩnh Yên ngày nay) (2879–258 tCN): 2622 năm

1.  Kinh Dương Vương (2879–2825 tCN)
2.  Lạc Long Quân (2825–2524 tCN)

Họ Hùng Vương, quốc hiệu Văn Lang, kinh đô Phong Châu (thế kỷ 7– thế kỷ 2 tCN)

18 đời Vua Hùng Vương.

Nhà Thục, quốc hiệu Âu Lạc, kinh đô Phong Khê (Cổ Loa, Huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay) (257–207 tCN): 50 năm

An Dương Vương Thục Phán.

Nhà Triệu, quốc hiệu Nam Việt, kinh đô Phiên Ngung (gần Quảng Châu, Trung Quốc ngày nay) (207–111 tCN): 96 năm

Ghi chú: Nhà Triệu là một triều đại chính thống hay là chỉ là một giai đoạn lịch sử? Điều này có nhiều đánh giá mâu thuẫn bởi các nhà làm sử Việt Nam. Theo quan điểm chính thống hiện này ở Việt Nam, Triệu Đà là tướng xâm lược của Nhà Tần, và Nhà Triệu là triều đại của người Hán, không phải là triều đại của người Việt.

1. Triệu Vũ Vương Triệu Đà (207–137 tCN)
2. Triệu Văn Vương (137–125 tCN)
3. Triệu Minh Vương (125–113 tCN)
4. Triệu Ai Vương (113 tCN)
5. Triệu Dương Vương (112–111 tCN)

Bắc thuộc lần thứ nhất, lãnh thổ mang tên Giao Chỉ Bộ (111 tCN–39): 150 năm

Trung Hoa: Nhà Tây Hán đô hộ.

Trưng Vương, quốc hiệu Lĩnh Nam, kinh đô Mê Linh (Vĩnh Phúc ngày nay) (40–43).

Bắc thuộc lần thứ hai, lãnh thổ mang tên Giao Chỉ rồi đổi ra Giao Châu (43–544): 500 năm

Trung Hoa: Nhà Đông Hán đến Nhà Đông Ngô, Nhà Tấn, Nam–Bắc triều, Nhà Lương đô hộ.

Bà Triệu khởi nghĩa (248).

Nhà Tiền Lý, quốc hiệu Vạn Xuân, kinh đô Long Biên (Hà Nội ngày nay) (544–602): 58 năm

1. Lý Nam Đế (544–548)
2. Triệu Việt Vương (549–571)
3. Lý Phật Tử (571–602)

Bắc thuộc lần thứ ba, lãnh thổ mang tên Giao Châu rồi đổi ra An Nam, Trấn Nam, An Nam, Tĩnh Hải quân  (603–939): 336 năm

Trung Hoa: Nhà Tùy đến Nhà Đường, Nhà Hậu Lương, thời Ngũ Quý (Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu) đô hộ.

Tên lãnh thổ An Nam bắt đầu từ năm 678 thời Đường Cao Tông.

Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) khởi nghĩa (713–722).
Mai Thiếu Đế kế vị (722–723).

Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) khởi nghĩa (791).

Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa làm tiết độ sứ (906–907)
Khúc Hạo lên thay làm tiết độ sứ (907–917)
Khúc Thừa Mỹ làm tiết độ sứ (917–923)
Dương Diên Nghệ & Kiểu Công Tiện làm tiết độ sứ (931–938).

Nhà Ngô, quốc hiệu Tĩnh Hải quân, kinh đô Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) (939–965)

1.  Tiền Ngô Vương Ngô Quyền (939–944)
2.  Dương Tam Kha (945–950)
3.  Hậu Ngô Vương (950–965)
Thời kỳ Thập nhị sứ quân (944–968)

Nhà Đinh, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) (968–980): 12 năm

1. Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh (968–979).
Từ đây, các vua Việt đều xưng Hoàng đế như một vương triều chính thống.
2. Đinh Phế Đế.

Nhà Tiền Lê, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (980–1009): 29 năm

1. Lê Đại Hành Lê Hoàn (980–1005)
2. Lê Trung Tông (1005)
3. Lê Long Đĩnh (1005–1009)

Nhà Lý, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Thăng Long (1010–1225): 215 năm

1. Lý Thái Tổ Lê Lợi (1010–1028)
2. Lý Thái Tông (1028–1054)
3. Lý Thánh Tông (1054–1072)

Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu thành Đại Việt.

4. Lý Nhân Tông (1072–1127)
5. Lý Thần Tông (1128–1138)
6. Lý Anh Tông (1138–1175)
7. Lý Cao Tông (1176–1210)
8. Lý Huệ Tông (1211–1225)
9. Lý Chiêu Hoàng (1225)

Nhà Trần, quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long (1225–1400), 175 năm

1. Trần Thái Tông (1225–1258)
2. Trần Thánh Tông (1258–1278)
3. Trần Nhân Tông (1279–1293)
4. Trần Anh Tông (1293–1314)
5. Trần Minh Tông (1314–1329)
6. Trần Hiến Tông (1329–1341)
7. Trần Dụ Tông (1341–1369)

Dương Nhật Lễ cướp ngôi (1369–1370), không được chính sử Đại Việt công nhận là vua chính thống của Nhà Trần.

8. Trần Nghệ Tông (1370–1372)
9. Trần Duệ Tông (1373–1377)
10. Trần Phế Đế (1377–1388)
11. Trần Nhuận Tông (1388–1398)
12. Trần Thiếu Đế (1398–1400)

Nhà Hồ, quốc hiệu Đại Ngu, kinh đô Tây Đô (Thanh Hóa) (1400–1407), 7 năm

1.  Hồ Quý Ly (1400–1401)
2.  Hồ Hán Thương (1401–1407)

Nhà Hậu Trần (1407–1414), 7 năm

1. Trần Giản Định (1407–1409)
2. Trần Quý Khoách (1409–1414)

Ghi chú: sử sách không thống nhất về tính chính danh của Nhà Hậu Trần, bởi vì trong thời kỳ này Nhà Minh đổi quốc hiệu Đại Ngu thành Giao Chỉ, vì thế có tác giả xem từ đây là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.

Bắc thuộc lần thứ tư, lãnh thổ mang tên Giao Chỉ (1407/1414–1427): 20/13 năm

Tùy theo quan điểm, thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư bắt đầu năm 1407 (từ lúc Nhà Hậu Trần bị quân Minh khống chế), hoặc năm 1427 (lúc Nhà Hậu Trần bị quân Minh diệt).

Trung Hoa: Nhà Minh đô hộ.

Nhà Hậu Lê, gồm hai giai đoạn Lê sơLê Trung hưng

Nhà Lê sơ, quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Đô (Hà Nội) (1428–1528), 99 năm

1. Lê Thái Tổ Lê Lợi (1428–1433)
2. Lê Thái Tông (1433–1442)
3. Lê Nhân Tông (1442–1459)

Lê Nghi Dân cướp ngôi (1459–1460), không được xem là vị quân chủ chính thống Nhà Hậu Lê.

4. Lê Thánh Tông (1460–1497)
5. Lê Hiến Tông (1498–1504)
6. Lê Túc Tông (1504)
7. Lê Uy Mục (1505–1509)
8. Lê Tương Dực (1509–1516)
9. Lê Chiêu Thống (1516 –1522)
10. Lê Cung Hoàng (1522–1527)

Nhà Mạc, quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Đông Đô (Hà Nội) (1527–1592), 65 năm

Ghi chú: Tùy quan điểm, Nhà Mạc chấm dứt hoặc năm 1592 khi Mạc Mậu Hợp thua chạy khỏi kinh đô, hoặc năm 1677

1.  Mạc Đăng Dung (1527–1530)
2.  Mạc Đăng Doanh (1530–1540)
3.  Mạc Phúc Hải (1541–1546)
4.  Mạc Phúc Nguyên (1546–1561)
5.  Mạc Mậu Hợp (1562–1592)
6.  Mạc Toàn (1592–1593)

Nhà Lê Trung hưng tức Nam–Bắc triều, quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Vạn Lại (1533–1789)

1. Lê Trang Tông (1533–1548)
2. Lê Trung Tông (1549–1556)
3. Lê Anh Tông (1557–1573)
4. Lê Thế Tông (1573–1599)

Từ 1597, tên kinh đô là Đông Kinh tức Thăng Long.

5. Lê Kinh Tông (1600–1619)

Thời kỳ vua Lê chúa Trịnh: 1627–1672, 1774–1777
tức Trịnh–Nguyễn phân tranh, chia ra Đàng Ngoài & Đàng Trong

6. Lê Thần Tông (1619–1643)
7. Lê Chân Tông (1643–1649)
Lê Thần Tông lên ngôi lần thứ hai (1649–1662)
8. Lê Huyền Tông (1663–1671)
9. Lê Gia Tông (1672–1675)
10. Lê Hy Tông (1676–1705)
11. Lê Dụ Tông (1705–1729)
12. Lê Đế (1729–1732)
13. Lê Thuần Tông (1732–1735)
14. Lê Ý Tông (1735–1740)
15. Lê Hiển Tổng (1740–1786)
16. Lê Chiêu Thống (1786–1789)

Nhà Tây Sơn (1778–1802): 24 năm

1. Thái Đức Nguyễn Nhạc (1778–1793)

Kinh đô Thành Hoàng Đế (Thành Đồ Bàn cũ).

2. Quang Trung Nguyễn Huệ (1788–1792)

Kinh đô Phú Xuân (Huế).

3. Nguyễn Quang Toản Cảnh Thịnh (1793–1802)

Nhà Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam, kinh đô Huế (1802–1945): 143 năm

Gia Long Nguyễn Ánh (1802–1819)

Minh Mạng (1820–1840)

Quốc hiệu được đổi thành Đại Nam.

Thiệu Trị (1841–1847)
Tự Đức (1848–1883)

Thời kỳ Pháp thuộc bắt đầu năm 1867, khi Nam Kỳ Lục tỉnh bị Nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp.

Dục Đức (1883, 3 ngày)
Hiệp Hòa (1883, 6 tháng)
Kiến Phúc (1883–1884)
Hàm Nghi (1884–1885)
Đồng Khánh (1886–1888)
Thành Thái (1889–1807)
Duy Tân (1907–1916)
Khải Định (1916–1925)
Bảo Đại (1926–1945)

Nguồn

Trần Trọng Kim (1971), vi.wikipedia.org

Xem thêm

Gia Long, Nhà Lê Trung hưng, Nhà Mạc, Nhà Nguyễn, Nhà Triệu (nước Nam Việt), quốc hiệu (Việt), Tây Sơn / Phong trào Tây Sơn, Trịnh–Nguyễn phân tranh.

Quốc triều chính biên toát yếu

Bộ quốc sử Đại Nam thực lục (Viện Sử học Việt Nam, 2002-2007) không được phổ biến rộng rãi trong dân gian, được lưu giữ trong sử cục nên không phải ai cũng có thể tiếp cận. Quốc triều Chánh biên toát yếu của Cao Xuân Dục (1908) được biên soạn cho giới bình dân đương thời đọc. Sách được dịch ra chữ Quốc ngữ và ban cấp cho các trường học theo chỉ của Vua Khải Định năm 1923, nhằm phổ biến trong dân chúng thông tin cơ bản về những vấn đề văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, quân sự… từ thời Vua Gia Long đến thời Vua Đồng Khánh, tức giai đoạn 1778–1888.

Khi biên soạn, các sử quan ít bình luận và không kê cứu gì thêm, để mặc cho sử liệu kể chuyện. Cũng cần lưu ý rằng, các thông tin truyền tải trong sách chỉ dừng ở mức khách quan tương đối, bởi chọn gì bỏ gì trong rừng thông tin là việc nâng lên đặt xuống theo quan điểm chủ quan của một nhóm người chép sử.

Đại Nam thực lục vốn được xem là sách dành cho giới hàn lâm, giới nghiên cứu sử coi đây là bộ sách công cụ, là nguồn tài liệu khả tín dùng để tham khảo, trích dẫn. Tùy theo nhu cầu sử dụng, mỗi người tiếp cận Đại Nam thực lục theo những cách khác nhau, vì quá đồ sộ và nhiều thông tin tiểu tiết, rườm rà nên không phải ai cũng đủ kiên nhẫn đọc hết bộ sách này.

Chẳng hạn, để biết giai đoạn Vua Minh Mạng cầm quyền trong 20 năm, độc giả phải đọc 220 bộ Đại Nam thực lục, tương đương gần 4.000 trang sách khổ 16 x 24 cm trong bản dịch Việt ngữ. Trong Quốc triều chính biên toát yếu, phần nội dung này được các sử quan rút lấy những điều cốt yếu và chép lại chỉ trong 1 quyển, tương đương 150 trang bản dịch Việt ngữ, một công việc không dễ dàng đối với các sử quan nhưng rất có ích đối với đa số độc giả.

Với tinh thần lấy sự tóm lược sự kiện làm chính, Quốc triều chánh biên toát yếu về cơ bản là chính xác và không rườm rà. Trừ chương đầu từ năm 1778 đến 1802 với những cuộc binh biến, bảy chương sau cho thấy một triều đại mới trên đà phát triển từ đối nội đến đối ngoại, đạt được những thành công rồi đi đến giai đoạn rối ren, bất ổn.

Cuốn sách là một công trình tỉ mỉ, có tính bao quát và là một nguồn sử liệu quý giá tái hiện sự phát triển của quốc gia trong hơn một thế kỷ. Mở đầu công trình bằng giai đoạn gian truân của Gia Long Hoàng đế để nối liền đất nước, Quốc triều chánh biên toát yếu cho thấy sự thống nhất về chính trị là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của quốc gia ở tất cả mọi mặt. Việc ghi chép và sắp xếp các sự kiện theo một dòng thời gian đồng nhất cho thấy triều đình có sự chuyển dịch dần từ khi quan võ chiếm thế thượng phong đến khi đất nước yên bình, quan văn chiếm phần ưu thế. (baoquocte.vn)

Không nên vì từ toát yếu (tóm tắt) mà độc giả ngày nay xem nhẹ công trình Quốc triều Chánh biên toát yếu, dù chỉ là sự tóm lược vắn tắt các sự kiện chính trong Thực lục nhưng những người phụ trách biên soạn của Quốc sử quán triều Duy Tân chắt lọc khá đầy đủ những thông tin cơ bản liên quan.

quy khứ lai hề

Xem: Ðào Tiềm.

Quỷ Cốc Tử

Quỷ Cốc Tử chỉ một nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Hoa. Họ tên không rõ ràng, con người ông được người đời sau hư cấu nên mang tính huyền bí. Ông là một nhà tư tưởng, nhà truyền giáo, có rất nhiều học trò theo học, trong số đó có nhiều người trở nên nổi tiếng thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bốn học trò được nổi tiếng hay được nhắc đến là nhà mưu lược Tôn Tẫn người nước Tề, nhà quân sự Bàng Quyên, hai nhà du thuyết Trương Nghi người nước Ngụy cùng Tô Tần người Lạc Dương (kinh đô nhà Chu). Ngoài ra ông còn có hai học trò nổi tiếng khác là nhà chính trị Lã Bất Vi (theo Tây Hán diễn nghĩa) và vị tướng Địch Thanh (theo Vạn Hoa lâu diễn nghĩa). Sáu người đều là những nhân vật thành đạt ở địa vị cao theo cách này hay cách khác. Nếu đúng như thế, Quỷ Cốc Tử quà là một người thầy kiệt xuất mà không có ai sánh bằng trong lịch sử Trung Hoa.

Đông Chu liệt quốc (Nguyễn Đỗ Mục, 2018) chép về ông như sau.

Đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỷ Cốc (hang quỷ), vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở. Trong núi ấy có một ẩn sĩ, tự đặt hiệu cho mình là Quỷ Cốc tử. Tương truyền rằng người ấy họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình Công, nguyên trước ở Văn Mộng sơn, cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy. Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỷ Cốc, người ta vẫn gọi là Quỷ Cốc tiên sinh. Ông là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp.

Mấy môn học vấn ấy là:

  1. Số học, nhật nguyệt tương vĩ đều thu cả ở trong bàn tay, xem việc trước đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm;
  2. Binh học, lục thao tam lược, biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỷ thần khôn biết;
  3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn dương;
  4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên.

Ân sĩ ấy có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỷ Cốc để nương mình. Ban đầu đôi khi Quỷ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người, nói những điều tốt, xấu, dữ, lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao. Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại.

Trong số học trò, Tôn Tẫn và Bàng Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng.

Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là giỏi lắm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền của để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, thì trong lòng khấp khởi, muốn giã từ Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ, muốn nói mà không dám nói.

Nhưng Quỷ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng: “Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà cầu lấy giàu sang?”

Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng: “Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không?”

Tiên sinh nói: “Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho.”

Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa. Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng bực, các cây cối ít có hoa nở. Bàng Quyên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật quý giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng: “Trong núi không có hoa.”

Tiên sinh nói: “Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia?”

Bàng Quyên không giấu được, phải lấy ra đưa trình. Nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ. Tiên sinh nói: “Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không? Đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lần nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm. Hoa này hái ở hang Quỷ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ ‘qui’ có chữ ‘ủy’, nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy.”

Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ.

Tiên sinh lại nói: “Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình. Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy, đừng quên: ‘gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo’.”

Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng: “Lời giáo hối của tôn sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ.”

Tiên sinh hỏi Tôn Tẫn: “Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không?”

Tôn Tẫn nói: “Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau!”

Tiên sinh nói: “Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không?”

Tẫn nói: “Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được?”

Tiên sinh nói: “Không làm được! không làm được!”

Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói. Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng: “Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta.”

Học trò vâng lời. Khi đến lượt Tôn Tẫn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tẫn rằng: “Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tôn Vũ tử [tức Tôn Vũ], xưa kia ông ngươi đem dâng Vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân Sở. Sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô đài; từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa. Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy; ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho.”

Tôn Tẫn nói: “Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này?”

Tiên sinh nói: “Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to. Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được!”

Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc. Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại. Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào.

Tiên sinh mừng mà nói rằng: “Ngươi biết dụng tâm như thế, thì tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy.”

Lại nói Bàng Quyên khi vào chầu Ngụy Huệ Vương, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm. Quyên mừng nghĩ thầm rằng thầy ta nói gặp dê thì tươi, lời nói ấy quả không sai. Huệ Vương cử Quyên làm nguyên soái và kiêm chức quân sư. Quyên luyện binh, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng. Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu. Lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang.

Quyên nghe nói Tôn Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, cũng theo lệnh Huệ Vương viết thư mời đến phò tá Ngụy.

Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỷ Cốc tiên sinh. Tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thầy, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến. Tiên sinh nghĩ rằng Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy Vương, thôi đành cứ để cho đi vậy, liền bảo Tôn Tẫn đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ là tiết tháng chín. Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm trả ngay vào trong bình.

Tiên sinh liền đoán rằng: “Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tính chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tài hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người đều quý trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một loài với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng. Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình. Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được!

Tiên sinh bèn đổi tên cho là “Tẫn”. Theo nghĩa chữ thì chữ “tẫn” là một thứ cực hình chặt chân. Quỷ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết.

Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem.

Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi.

Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mộ, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh. Tiên sinh hỏi: “Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không?”

Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại. Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đoán rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành; Tần gặp gỡ ngay, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng.

Tiên sinh lại nói: “Ta xem Tôn, Bàng hai người như thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai người mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay.”

Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy.

Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi, vài hôm sau tiên sinh cũng bỏ Quỷ Cốc mà ngao du, có người nói sau này tiên sinh lên tiên.

Riêng Bàng Quyên tự cho rằng mình không giỏi bằng Tôn Tẫn. Để triệt hạ bạn học, Bàng Quyên vu tội khiến Tôn Tẫn bị chặt xương đầu gối và thích lên mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình, không thể ra làm tướng. Cái tên Tẫn (hình phạt chặt xương đầu gối) của họ Tôn chính là xuất phát từ sự kiện này. Năm 366 tCN, biết tin sứ giả nước Tề qua nước Ngụy, Tôn Tẫn thân hành tới thuyết phục sứ giả. Thấy Tôn Tẫn có tài lạ, sứ giả đưa Tôn Tẫn về nước Tề và Tẫn trở thành thượng khách của Tướng quốc Điền Kỵ.

Tới năm 341 tCN, Ngụy Vương một lần nữa sai Bàng Quyên đem quân đánh Tề. Để lừa Bàng Quyên đuổi theo quân Tề, Tôn Tẫn dùng kế rút bếp, theo đó cứ ngày hôm sau thì lại cho làm ít bếp ở doanh trại hơn so với ngày hôm trước, ngày đầu 10 vạn cái, ngày hôm sau còn 5 vạn cái và đến hôm sau nữa còn 3 vạn cái. Kế rút bếp khiến Bàng Quyên tưởng rằng quân Tề vì sợ hãi đã bỏ trốn quá nửa, vì vậy Bàng Quyên bỏ bộ binh, chỉ mang theo khinh binh thúc quân bất chấp mỏi mệt đuổi theo quân Tề ngày đêm. Về phần mình, Tôn Tẫn trù tính trước sẽ đánh úp quân Ngụy ở đường Mã Lăng (nay nằm ở tây-nam Huyện Phạm, Hà Nam), một con đường hẹp và hiểm trở, dễ mai phục, khó lui quân. Tôn Tẫn cho quân dùng cung tên mai phục cẩn thận ở Mã Lăng, lại cho sơn trắng cây trên đó có ghi chữ: “Bàng Quyên chết ở dưới cây này!” Quả nhiên Bàng Quyên cùng tinh binh bị lừa vào rọ lúc nửa đêm, đang lúc Bàng Quyên sai đốt lửa để đọc chữ thì Tôn Tẫn cho quân phục kích bắn tên tới tấp vào quân Ngụy.

Đúng như Quỷ Cốc Tử đã tiên đoán, Bàng Quyên hại Tôn Tẫn bị chặt chân, về sau bị Tôn Tẫn cho phục quân bắn chết ở Mã Lăng, ứng với câu của thầy: như cành hoa “gặp ngựa thì héo”.

Xem thêm: Trương Nghi, Tô Tần.

Nguồn tham khảo và đọc thêm

Anon. (2006). Phan Thanh Giản đã chết đúng theo luật định của người giữ thành. http://vusta.vn/chitiet/tin-tuyen-sinh-dao-tao/Phan-Thanh-Gian-da-chet-dung-theo-luat-dinh-cua-nguoi-giu-thanh-1011

Anon. (2009). Những suy nghĩ sau hai cuộc hội nghị về nhân vật Phan Thanh Giản. https://baodongkhoi.vn/nhung-suy-nghi-sau-hai-cuoc-hoi-nghi-ve-nhan-vat-phan-thanh-gian-20032009-a9023.html

Bùi Thông (dịch giả) & Phạm Thành Long (dịch giả) (2017). Tư trị thông giám. Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội. Nguyên tác: Tư Mã Quang (1084), Tư trị thông giám.

Bửu Kế (1968). Tầm nguyên từ điển. Sài Gòn: Nhà Xuất bản Khai trí.

Cao Thế Dung (2019). Nguồn gốc người Việt và tên nước Việt Nam. https://luocsutocviet.wordpress.com/2019/06/15/323-nguon-goc-nguoi-viet-va-ten-nuoc-viet-nam/

Chen, R. (no date). Lịch sử đất nước Phù Nam (Funan). http://lichsuvanhoa.blogspot.com/2016/12/lich-su-at-nuoc-phu-nam-funan.html

Coedes, George (1968). The Indianized States of Southeast Asia, edited by Walter F. Vella, translated by Susan Brown Cowing. Canberra: Australian National University Press.

Diệp Minh Tâm (2019b). Những hư cấu trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa”. https://tamdiepblog.wordpress.com/2019/07/26/nhung-hu-cau-trong-tieu-thuyet-tam-quoc-dien-nghia/

Diệu Hương (2020). Ông Đùng, bà Đà – gợi dậy tiềm thức xưa về người khổng lồ. https://baophapluat.vn/nhip-song-hom-nay/ong-dung-ba-da-goi-day-tiem-thuc-xua-ve-nguoi-khong-lo-498566.html

Đào Duy Anh (2016). Đất nước Việt Nam qua các đời. Hà Nội: Nhà Xuất bản Nhã Nam.

Hoàng Hoa (2019). Pháp lam Huế – tinh hoa nghệ thuật của đất sông Hương núi Ngự. https://vn.sputniknews.com/opinion/201903297321848-nghe-phap-lam-hue/

Hồ Liên (2019). Nghệ thuật Pháp Lam xứ Huế. https://huesmiletravel.com.vn/blog/phap-lam-hue

Hồng Thanh Quang (2017). GS Đinh Xuân Lâm: Nhà sử học phải khách quan và trung thực. http://daidoanket.vn/gs-dinh-xuan-lam-nha-su-hoc-phai-khach-quan-va-trung-thuc-363327.html

Khám Phá Lịch Sử (2020). Phan Thanh Giản – Bi kịch 4 lần chết và nỗi oan 140 năm. https://khamphalichsu.com/phan-thanh-gian-bi-kich-nguoi-4-lan-chet-va-noi-oan-140-nam-n157.html

Lê Hữu Mục (dịch giả) (1960). Lĩnh Nam chích quái. Sài Gòn: Nhà sách Khai trí. Nguyên tác: Trần Thế Pháp (15??), Lĩnh Nam chích quái.

Lê Trung Hoa (2005). Câu “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu” là của ai? https://www.sggp.org.vn/cau-quan-su-than-tu-than-bat-tu-bat-trung-phu-su-tu-vong-tu-bat-vong-bat-hieu-la-cua-ai-129853.html

Mộng Bình Sơn (dịch giả) (2012). Hán Sở tranh hùng. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyên tác: Chân Vĩ (đầu thế kỷ 17), Tây Hán diễn nghĩa.

Ngô Đức Thọ (1990). Thiền uyển tập anh. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyên tác: Thông Biện (1715), Trùng san thiền uyển tập anh, khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11.

Ngô Minh (2008). Phan Thanh Giản – nỗi oan 150 năm. https://tuoitre.vn/phan-thanh-gian—noi-oan-150-nam-280837.htm

Nguyễn Đăng Thục (1967). Lịch sử tư tưởng Việt Nam. Sài Gòn: Nhà Xuất bản Bộ Văn hóa.

Nguyễn Đình Đầu (2007). Việt Nam – Quốc hiệu & cương vực qua các thời đại. Tp HCM: Nhà Xuất bản Trẻ.

Nguyễn Đỗ Mục (dịch giả) & Cao Xuân Huy (hiệu đính) (2018). Đông Chu liệt quốc. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyên tác: Phùng Mộng Long (Feng Menglong), Đông Chu liệt quốc chí.

Nguyễn Đức Vịnh (dịch giả) (2022). Sử ký: Bản kỷ – Biểu. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyên tác: Tư Mã Thiên (91 tCN), Sử ký: Bản kỷ – Biểu.

Nguyễn Hiến Lê (1997). Đại cương văn học sử Trung Quốc (trọn bộ). Tp HCM: Nhà Xuất bản Trẻ.

Nguyễn Hiến Lê (2017). Sử Trung Quốc. Tp HCM: Nhà Xuất bản Tổng hợp.

Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi (1997). Hàn Phi Tử. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn hóa.

Nguyễn Hữu Hiệp (2020). Nghĩ về ông Phan Thanh Giản. https://trithucvn.org/van-hoa/nghi-ve-ong-phan-thanh-gian.html

Nguyễn Nhã (2020). Phan Thanh Giản với cái nhìn khách quan của lịch sử. https://nguoidothi.net.vn/phan-thanh-gian-voi-cai-nhin-khach-quan-cua-lich-su-22628.html

Nguyễn Thị Kim Bình (2008). Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 3(26): 134–. https://www.slideshare.net/nguoitinhmenyeu/tu-tuong-tri-nuoc-cua-phap-gia-va-vai-tro-cua-no

Nhật Hoa Khanh (2006). “Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông”, Tạp Xưa & Nay Số 269.

Pelliot, P. (1903). “Le Funan”, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Tome 3: 248-303.

Phan Huy Lê (no date). Phan Thanh Giản – con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử. http://namkyluctinh.com/a-lichsu/phanhuyle-phanthanhgian.htm

Phan Khoang (1961) Việt Nam Pháp thuộc sử (1884–945). Sài Gòn: Nhà Xuất bản Khai trí.

Phan Ngọc (dịch giả) (2008). Sử ký. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyên tác: Tư Mã Thiên (91 tCN), Sử ký.

Phạm Thiệu & Nguyễn Cường (2013). Lễ hội ông Đùng – bà Đà và tục rước hình nộm đặc sắc. https://www.nguoiduatin.vn/le-hoi-ong-dung-ba-da-va-tuc-ruoc-hinh-nom-dac-sac-a65343.html

Phong Đảo (dịch giả) (2000). 10 đại mưu lược gia Trung Quốc. Nhà Xuất bản Thanh niên. Nguyên tác: Tang Du (chủ biên), Trung Quốc thập đại tùng thư.

Quốc sử quán triều Nguyễn (dịch giả) (1925). Quốc triều chính biên toát yếu. Nguyên tác: Cao Xuân Dục (1908), Quốc triều chính biên toát yếu. Bản in lại 1998 của Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.

thaibinhtv.vn (2016). Đặc sắc lễ hội Bà Chúa Muối tại Xã Thụy Hải. http://thaibinhtv.vn/news/89/29512/dac-sac-le-hoi-ba-chua-muoi-tai-xa-thuy-hai

Thiên Điểu (2020). Bàn giao bản thảo bộ quốc sử ‘tôn trọng sự thật lịch sử’. https://tuoitre.vn/ban-giao-ban-thao-bo-quoc-su-ton-trong-su-that-lich-su-20201112144057146.htm

Thu Hà (2015). Phủ Tây Hồ và tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh. https://baodansinh.vn/phu-tay-ho-va-tin-nguong-tho-mau-lieu-hanh-3273.htm

Toan Toan (2020). Bộ quốc sử: Xứng tầm và toàn diện? https://tienphong.vn/bo-quoc-su-xung-tam-va-toan-dien-post1233680.tpo

Trần Đại Vinh (dịch giả) (2018). Phủ biên tạp lục. Nhà Xuất bản Đà Nẵng. Nguyên tác: Lê Quý Đôn (1776), Phủ biên tạp lục.

Trần Đức Anh Sơn (2017). Pháp lam Huế ở Châu Âu. http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3101/62044/phap-lam-hue-o-chau-au.html

Trần Đức Anh Sơn (2018). Thăm sưu tập pháp lam Huế của Loan de Fontbrune ở Paris. http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/69223/tham-suu-tap-phap-lam-hue-cua-loan-de-fontbrune-o-paris.html

Trần Trọng San (1965). Thơ Đường, Quyển 1. Tuyển dịch theo thời gian (Sơ Đường – Trung Đường – Thinh Đường – Vãn Đường) gồm 108 bài.

Trần Trọng San (1970). Thơ Đường, Quyển 2. Tập trung vào tác phẩm của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị; tổng cộng 110 tác phẩm.

Trần Trọng San (1973). Thơ Đường, Quyển 3. Phân loại theo thể thơ: ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú, ngũ ngôn luật thi, ngũ ngôn cổ phong, thất ngôn cổ phong.

Trịnh Đình Rư (dịch giả) (2012). Việt điện u linh. Pleiku: Nhà Xuất bản Hồng Bàng, Gia Lai. Nguyên tác: Lý Tế Xuyên (1329). Việt điện u linh tập.

Viết Tuân (2018). Bộ quốc sử Việt Nam lần đầu tiên đề cập nhiều vấn đề nhạy cảm. http://yenbai.noichinh.vn/chi-tiet/bo-quoc-su-viet-nam-lan-dau-tien-de-cap-nhieu-van-de-nhay-cam-2446

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (dịch giả) (1993). Đại Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. Nguyên tác: Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên (1697), Đại Việt sử ký toàn thư.

Viện Sử học Việt Nam (dịch giả) (2002-2007). Đại Nam thực lục, trọn bộ 10 tập. Nguyên tác:  Trương Đăng Quế et al. (sơ tập 1889; nhị tập 1895) Đại Nam thực lục, Quốc sử quán Triều Nguyễn.

Vũ Đức Liêm (2017). Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử. https://nghiencuulichsu.com/2018/12/26/phu-nam-huyen-thoai-va-nhung-van-de-lich-su/

Vương Trí Nhàn (2018). Nguyễn Hiến Lê – người cải chính nhiều sự hiểu nhầm về lịch sử Trung Quốc. https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguyen-hien-le-cai-chinh-nhieu-su-hieu-nham-ve-lich-su-trung-quoc.html

Wikipedia_Các tên gọi của nước Việt Nam. https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_t%C3%AAn_g%E1%BB%8Di_c%E1%BB%A7a_n%C6%B0%E1%BB%9Bc_Vi%E1%BB%87t_Nam

Wikipedia_Phù Nam. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9_Nam#/media/T%E1%BA%ADp_tin:FunanMap001.jpg

Wikipedia_Quan Âm Thị Kính. https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_%C3%82m_Th%E1%BB%8B_K%C3%ADnh_(truy%E1%BB%87n_th%C6%A1)

________________________________________________
Diệp Minh Tâm chỉnh lý và bổ sung tháng 3 năm 2024

Leave a comment