Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 – Bài 2: Bộ Tứ Trí – Vân – Lân – Cẩn

Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 – Bài 2: Bộ Tứ Trí – Vân – Lân – Cẩn
Diệp Minh Tâm
Tháng 10-2021

Các bài viết trong loạt bài này:

Ghi chú – Notice

Mở đầu

Thông tin cơ sở

Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 – Bộ Tứ Trí – Vân – Vân – Cẩn

Tranh Nguyễn Gia Trí

Ba Vua – Nguyễn Gia Trí
Bản làng – Nguyễn Gia Trí
Cá hóa rồng – Nguyễn Gia Trí
Chân dung Nguyễn Tường Tam – Nguyễn Gia Trí
Dân làng, 1939 – Nguyễn Gia Trí
Đêm Thánh – Nguyễn Gia Trí
Hai thiếu nữ [A] – Nguyễn Gia Trí
Hai thiếu nữ [B] – Nguyễn Gia Trí
Hội xuân miền Bắc – Nguyễn Gia Trí
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh”, 1942 – Nguyễn Gia Trí
Kỷ niệm đẹp – Nguyễn Gia Trí
Lễ hội đầu năm – Nguyễn Gia Trí
Người đàn bà – Nguyễn Gia Trí
Những phụ nữ trong vườn, thập niên 1980s – Nguyễn Gia Trí
Những thiếu nữ trong vườn [A], thập niên 1970s – Nguyễn Gia Trí
Những thiếu nữ trong vườn [B], 1973 – Nguyễn Gia Trí
Những thiếu nữ trong vườn [C], 1973 – Nguyễn Gia Trí
Những thiếu nữ Việt Nam, khoảng 1972 – Nguyễn Gia Trí
Phác thảo sen – Nguyễn Gia Trí
Phác thảo “Thiếu nữ bên Hồ Gươm” – Nguyễn Gia Trí
“Phong cảnh đồng quê Bắc Bộ”– Nguyễn Gia Trí
Thiếu nữ trong vườn, 1942-1945 – Nguyễn Gia Trí
Thiếu nữ trong vườn & Phong cảnh (Dọc mùng), 1939 – Nguyễn Gia Trí
Trừu tượng [A] – Nguyễn Gia Trí
Trừu tượng [B] – Nguyễn Gia Trí
Vườn xuân, 1970 – Nguyễn Gia Trí
Vườn xuân Trung Nam Bắc, 1989 – Nguyễn Gia Trí

Tranh Tô Ngọc Vân

Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim, 1940 – Tô Ngọc Vân
Hai thiếu nữ và em bé, 1944 – Tô Ngọc Vân
Thiếu nữ bên hoa huệ, 1943 – Tô Ngọc Vân
Thợ thêu, 1932 – Tô Ngọc Vân
Tranh bìa Xuân “Ngày nay”, 1940 – Tô Ngọc Vân
“Tú bà ghé lại thong dong dặn dò”, 1942 – Tô Ngọc Vân
Vỡ mộng, 1932 – Tô Ngọc Vân

Tranh Nguyễn Tường Lân

Chợ miền núi – Nguyễn Tường Lân
Đôi bạn – Nguyễn Tường Lân
Làng chài, 1934 – Nguyễn Tường Lân
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi”, 1942 – Nguyễn Tường Lân

Tranh Trần Văn Cẩn

Cháu Thúy Nga, 1979 – Trần Văn Cẩn
Chân dung cô M., 1969 – Trần Văn Cẩn
Chân dung Khanh, 1967 – Trần Văn Cẩn
“Đêm thu khắc lậu canh tàn”, 1942 – Trần Văn Cẩn
Em Thúy, 1943 – Trần Văn Cẩn
Gội đầu – Trần Văn Cẩn
Khâu áo cho con, 1955 – Trần Văn Cẩn
Thành cổ Đồng Hới, 1969 – Trần Văn Cẩn
Thiếu nữ đọc sách – Trần Văn Cẩn
Tình yêu đầu tiên, 1973 – Trần Văn Cẩn

Sơ lược về các tác giả

Bộ Tứ “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”
Nguyễn Gia Trí
Tô Ngọc Vân
Nguyễn Tường Lân
Trần Văn Cẩn

Nguồn tham khảo và đọc thêm

Ghi chú – Notice

Vì một số lý do, người tổng hợp cáo lỗi không thể xin phép tác giả các tư liệu và hình ảnh được sử dụng trong loạt bài này. Nếu bạn đọc xem qua loạt bài của tôi rồi cảm nhận sâu sắc về nền mỹ thuật của Việt Nam, thì cái tội sử dụng chất liệu mà không xin phép của người tổng hợp hẳn sẽ được dung thứ.

Due to various reasons, the compiler could not seek authors’ permission for the use of their materials and photographs in this treatise. If after going through this text, the readers have a deep sense toward Vietnamese arts, then I hope my plagiarism would be pardoned.

Ghi chú về tựa đề tranh: các họa sĩ thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam được đào tạo trong môi trường dùng tiếng Pháp nên lẽ tự nhiên là tựa đề nhiều tranh của họ bằng tiếng Pháp, và đáng lẽ chúng ta nên dùng tựa đề gốc. Nhưng đến tay các nhà buôn bán tranh trong môi trường dùng tiếng Anh (như ở Hongkong và Singapore) thì tranh lại có tựa đề tiếng Anh và nhiều khi không có tựa đề bằng ngôn ngữ gốc. Để độc giả dễ theo dõi, bài này dùng tựa đề dịch ra tiếng Việt (tuy rằng nguồn khác có thể dịch cách khác) và ghi thêm tựa đề tiếng Anh, nếu có. Trong trường hợp này, cần hiểu rằng tựa đề tiếng Anh không hẳn là tựa đề gốc.

Một số tác phẩm mỹ thuật bằng gỗ, đồng và gốm sứ được giới thiệu trong

Mở đầu

Người tổng hợp bài này không giỏi về thưởng lãm mỹ thuật và cũng không làm công việc sáng tác mỹ thuật ngoại trừ vài bức vẽ thời trung học được thầy dạy hội họa khen, lại càng không sưu tập tranh. Người tổng hợp chỉ có cảm nhận khi nhìn đến một số tác phẩm mỹ thuật, và cảm nhận là động lực trong việc giới thiệu các tác phẩm trong bài viết này. Tuy vậy, tiêu chí cảm nhận không phải là tất cả. Có một số tác phẩm tôi chưa thấy hay ở điểm nào nhưng vẫn đưa vào đây do sự đánh giá tích cực của chuyên gia, hoặc do giá bán mà tự nó cũng là thước đo cho sự đánh giá. Như thế, bạn có cơ hội tham khảo các tác phẩm được đánh giá cao và, như tôi, có thể nâng tầm thưởng lãm.

Ngoài tiêu chí cảm nhận và sự đánh giá, việc chọn lựa tác phẩm để trình bày ở đây tùy thuộc vào việc tìm được thông tin và ảnh tranh có chất lượng dù tương đối. Có nghĩa là còn có tác phẩm khác có giá trị không kém nhưng người tổng hợp loạt bài này chưa được biết đến, hoặc chưa tìm được hình ảnh thích hợp.

Nền hội họa Việt Nam có ba Bộ Tứ đặc sắc:

  • Bộ Tứ trời Âu “Phổ – Thứ – Lựu – Đàm”, gồm Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, và Vũ Cao Đàm.
  • “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”, gồm Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân và Trần Văn Cẩn.
  • “Nhất Sáng, nhì Liên, tam Nghiêm, tứ Phái”, gồm Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, và Bùi Xuân Phái.

Nhóm Bộ Tứ trời Âu được sống trong môi trường nghệ thuật phóng khoảng và có hoàn cảnh kinh tế sung túc trong thế kỷ 20, lại ít chịu biến động chính trị và chiến tranh (trừ giai đoạn ngắn trong Thế chiến 1939-1945). Do vậy mà Bộ Tứ này có đủ điều kiện thuận lợi sáng tác theo cảm hứng của họ, để lại di sản đáng kể về giá trị mỹ thuật và số lượng. Thị trường tranh của họ ở Paris, Hongkong và Singapore do đó sôi động hẳn so với tranh của hai Bộ Tứ kia.

Ngược lại, từ năm 1945 họa sĩ trong nước ở cả hai miền Bắc và Nam bị ảnh hưởng rất tai hại từ chiến tranh, biến động chính trị, giáo điều và quan niệm cổ hủ, lại thêm điều kiện kinh tế thiếu thốn, khiến cho số lượng tranh sáng tác theo cảm hứng thật sự ít hẳn đi. Trong một thời gian dài, nhiều nỗ lực chuyển qua tranh cổ động tuyên truyền, không có gallery và thị trường tranh, thiếu thốn vật liệu để sáng tác (như vật liệu làm sơn mài). Trong những hoàn cảnh như thế và khi phải chạy vạy cơm áo hàng ngày thì cảm hứng bị cùn nhụt, và nếu có cảm hứng thì việc vẽ tranh là điều xa xỉ!

Điều này giải thích tại sao bài viết về Bộ Tứ trời Âu có số tranh vượt trội so với bài viết về hai Bộ Tứ kia: “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” và “Nhất Sáng, nhì Liên, tam Nghiêm, tứ Phái”.

Bài viết này giới thiệu một số tác phẩm của Bộ Tứ: “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”, gồm Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân và Trần Văn Cẩn. Cả bốn danh họa đều có những thành tựu trong sáng tạo nghệ thuật và có những đóng góp to lớn cho nền hội họa Việt Nam.

Thông tin cơ sở

Tranh giả, tranh chép

Nhiều năm qua, hiện tượng tranh giả, tranh chép được rao bán công khai trên các trang mạng xã hội,  cho đến các gallery.  Có lẽ số tiền kiếm được lợi nhuận khủng này càng thúc đẩy vấn nạn tranh chép, tranh giả, gây hoanh mang cho người tiêu dùng. Nhiều họa sĩ đã bức xúc lên tiếng nhưng hiện tượng này từ nhiều năm nay vẫn không có dấu hiệu dừng lại mà ngày một gia tăng. Không chỉ có chép tranh của những cây cao bóng cả, những tên tuổi đã đóng đinh trong làng hội họa Việt Nam Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên… mà ngay cả những họa sĩ đương đại cũng bị chép tranh liên tục như Đỗ Quang Em, Bùi Hữu Hùng, Lê Thiết Cương, Đào Hải Phong… tranh giả đầy rẫy mọi nơi. Nhiều họa sĩ khác không quá tên tuổi vẫn bị chép tranh miễn là bức tranh đấy bắt mắt và phù hợp với mục đích tiêu dùng. Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng, trên thế giới cũng có xâm hại bản quyền, song tỉ lệ chỉ 5%, trong khi Việt Nam thì quá trầm trọng, chiếm tới 50%.  (Trần Mỹ Hiền, 2020)

Kỳ lạ thay, nạn tranh giả, tranh chép không chỉ đơn thuần bày bán ở các gallery hay tìm con đường xuất ra nước ngoài mà còn trên các sản phẩm như tranh tường, áo dài… Sao chép tranh tự do ở rất nhiều cửa hàng trong các thành phố, chủ yếu là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng là tác phẩm tất cả các danh họa trong và ngoài nước có thể và bán với giá rất rẻ, chừng vài trăm nghìn một bức. Trong vấn nạn đáng lên án này, người ta đã phát hiện nhiều bức tranh của họa sĩ nổi tiếng Dương Bích Liên đã bị làm giả và chép tranh trên mọi chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa… Còn tranh giả của Phố Phái thì khỏi phải nói rồi. Tranh giả từ tinh xảo đến đại ẩu, xuất hiện từ các nhà sưu tập tranh cổ đến tranh vỉa hè bán cho khách du lịch… Mùa hè năm ngoái, tác phẩm hội họa của họa sĩ Bùi Trọng Dư lại xuất hiện trên tà áo dài của các cô người mẫu xinh xắn. Sự việc ồn ào một thời gian rồi chìm vào quên lãng.

Các nhà đấu giá nổi tiếng như Sotheby’s và Christie’s thường đăng tải công khai tác phẩm của các danh họa người Việt là Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Trần Văn Cẩn trên trang web của họ, để các nhà sưu tầm và người yêu tranh tham khảo trước khi đưa lên sàn. Thế nhưng, với con mắt của những người làm việc trong nghề, giới họa sĩ Việt tố cáo các nhà đấu giá từng đưa tranh giả, tranh chép của các họa sĩ Đông Dương ra thị trường mỹ thuật quốc tế.

Một lần, Sotheby’s mốn đưa lên sàn 4 tác phẩm của 4 họa sĩ nổi tiếng Việt Nam là tranh lụa Hai cô gái của Trần Văn Cẩn, tranh sơn mài Dân quê Việt của Nguyễn Sáng, tranh sơn mài Phong cảnh của Nguyễn Gia Trí và tranh lụa Lá thư của Tô Ngọc Vân.

Ở cả 4 tác phẩm này, giới họa sĩ và nghiên cứu mỹ thuật đều cho rằng, với những nét vẽ thiếu chuyên nghiệp và ngây ngô, đây không phải là các tác phẩm bản gốc. Trong đó, bức Hai cô gái của Trần Văn Cẩn và Lá thư của Tô Ngọc Vân được cho là tranh chép. Còn bức Dân quê Việt của Nguyễn Sáng và Phong cảnh của Nguyễn Gia Trí được cho là tranh giả, nhái phong cách của 2 họa sĩ nổi danh của làng sơn mài Việt. Trong khi đó, phong cách của Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân hay Nguyễn Gia trí, Nguyễn Sáng đều rất rõ ràng, đạt đến trình độ bậc thầy thì 4 tác phẩm này đã hạ thấp tên tuổi và giá trị tác phẩm của 4 danh họa. (Thanh Xuân, 2019)

Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng nhận xét về bức Dân quê Việt của Nguyễn Sáng: chỉ cần nhìn cái tay trái cầm đòn gánh của người đàn ông ở gần lại cắm vào sau lưng người phụ nữ ở xa là đủ thấy hiểu biết về luật viễn cận của người vẽ bức tranh này là gần như không có. Những thứ ngớ ngẩn như thế sao cứ nhan nhản trong tranh của “các cụ Đông Dương”, trong khi cả người bán, cố vấn chuyên gia lẫn người mua sao vẫn như không có mắt vậy?

Họa sĩ Phạm An Hải thì cho rằng, Sotheby’s biết đấy nhưng vì lợi nhuận nên lờ đi. Chỉ có người Việt là bị thiệt hại, tên tuổi của các họa sĩ bị ảnh hưởng đã đành, mà người mua tranh của kẻ làm giả rồi bán lại cho người thưởng tranh thật, đã đưa một mớ tranh đáng lý vứt đi, bỗng có giá trị tiền tỷ.

Còn một họa sĩ giấu tên khác lại nhìn 4 bức tranh này ở góc độ khác rằng, vóc đẹp màu tươi quá, không có màu thời gian. Vậy nên, đây rõ ràng là các tác phẩm tranh giả, tranh chép. Và tác phẩm mỹ thuật cũng là một mặt hàng trên thị trường quốc tế. Do vậy, để tránh mua phải tranh giả, mỗi nhà sưu tập hãy là một người tiêu dùng thông thái.

Việc tranh giả, tranh chép của các danh họa Việt Nam xuất hiện trên các sàn đấu giá quốc tế đang diễn ra ngày một nhiều hơn, không chỉ tại các sàn quốc tế châu Á mà còn tại châu Âu. Điều đó chứng tỏ, sức hấp dẫn và giá trị của các tác phẩm độc bản do các họa sĩ Đông Dương thực hiện. Và vì cầu vượt quá cung, mà giá trị tác phẩm lại quá cao đã khiến nạn tranh giả, tranh nhái được dịp lộng hành.

Trước hiện tượng này, nhà nghiên cứu mỹ thuật Phạm Long cho rằng, các bảo tàng của Việt Nam không hề lên tiếng để bảo vệ uy tín cho các họa sĩ Đông Dương. Hội Mỹ thuật Việt Nam cũng không có động thái nào. Trong khi đáng lý, hội không chỉ bảo vệ uy tín, quyền lợi của những hội viên đang sống mà còn phải có trách nhiệm với các hội viên đã khuất. Nếu Việt Nam không lên tiếng, họ sẽ tiếp tục bán, làm thật giả lẫn lộn. (Thanh Xuân, 2019)

Trong cuộc tọa đàm “Hướng tới thị trường mỹ thuật minh bạch” năm 2016, một số ý kiến là như sau (nhandan.vn, 2016):

Nhà báo Hữu Việt, Trưởng ban Văn hóa–Văn nghệ Báo Nhân Dân: Hình như chính giới mỹ thuật cũng ngầm biết, vẫn có một thị trường tranh giả, tranh chép hoạt động ngầm nhưng sôi động và gây tổn hại rất lớn cho uy tín cũng như giá trị thương hiệu của mỹ thuật Việt Nam?

Họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Phó Chủ tịch thường trực Hội Mỹ thuật Việt Nam: Đúng là tôi phải chia sẻ với nỗi đau ba thập kỷ của giới mỹ thuật… Ta đã đặt ra những câu hỏi chấm lửng, tại sao lại có những đường dây làm tranh giả hết sức an toàn và bền vững.

Nhà sưu tầm Nguyễn Mạnh Phúc: Có thực tế là, hiện nay có một số người buôn bán cổ vật (không phải sưu tầm) thấy tranh có giá trị nên chuyển sang buôn bán tranh. Các cơ quan truyền thông có tiếp tay, tâng bốc họ là nhà sưu tầm nổi tiếng góp công đưa các tuyệt phẩm của đất nước trở về. Như mọi người nói, họ làm phải có đường dây… Đáng trách nhất là các cơ quan quản lý. Việc xảy ra và kéo dài mấy chục năm mà các cơ quan quản lý không vào cuộc. Lẽ ra, phải có hội đồng thẩm định, có cơ quan bán đấu giá từ lâu rồi.

Họa sĩ Đào Hải Phong: Hiện trạng này là cái giá phải trả cho tất cả những gì ta đã làm. Trong lịch sử trước đây, bảo tàng đã rất sai lầm, rất thiếu hiểu biết khi đặt họa sĩ vẽ lại tranh mình.

Họa sĩ Lương Xuân Đoàn: Gần đây, trong câu chuyện tranh Việt hồi hương, đã có không ít tranh giả. Có một con đường vòng vèo, kín đáo sang châu Âu rồi quay về Việt Nam để tạo chứng lý hợp pháp cho tranh giả… Nó cũng tác động trực tiếp tới các họa sĩ trẻ đương đại, liệu họ có đủ tự tin để công bố một triển lãm khi biết những kẻ làm giả phát hiện triển vọng bán tranh của họ trong tương lai?

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: Thật ra, thị trường tranh Việt Nam vẫn nghiệp dư (trên thế giới, chủ gallery phải có bằng, ở ta, chả ông chủ nào có bằng cả, thế mà vẫn “lái” nghệ thuật đi hết chỗ này chỗ kia). Bản thân cơ quan Nhà nước đặt tranh chép, các gallery bán tranh chép, chả có chế tài nào ngăn ngừa. Vì thế, trước hết bảo tàng mỹ thuật phải bỏ đi những bức tranh giả, tôi chưa thấy bảo tàng nào tệ như ở ta.

Nhà báo Phan Huy Hiền – Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân: Từ những trao đổi, phân tích của các quý vị tôi thật sự thấy Việt Nam đã có một di sản hội họa vô giá – đấy là những tác phẩm quý giá của các họa sĩ thời kỳ mỹ thuật Đông Dương, cả các họa sĩ thế hệ sau đó và thế hệ đổi mới. Thật tiếc, từ những lý do khách quan của lịch sử và sau này cộng thêm những toan tính thủ đoạn xấu của một số cá nhân, nhiều báu vật hội họa đã bị thất lạc, bị làm giả, làm nhái, gây nên những tác hại, những hậu quả khó định lượng cho văn hóa Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam nói chung, và bản thân các họa sĩ nói riêng…

Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 – Bộ Tứ Trí – Vân – Vân – Cẩn

Tranh Nguyễn Gia Trí

Ba Vua – Nguyễn Gia Trí

Ba Vua là tranh về đề tài Giáng sinh thoạt tiên được thực hiện theo đặt hàng của Tổng thống Ngô Đình Diệm để định làm quà tặng Tòa thánh Vatican. Nhưng khó chịu vì những “góp ý” của con người quyền thế kia, Nguyễn Gia Trí thoái thác không giao tranh và… tặng không cho một người bạn vong niên là một bác sĩ (có tài liệu nói người được cho tranh là một nhà văn trẻ, sau đó bức tranh mới về tay ông bác sĩ). Năm 1975, chủ nhân qua Pháp, mang theo bức tranh, nhưng rồi không hiểu vì lý do gì lại gửi nó về cho gia đình ở trong nước. Năm 1996, gia đình ông bán bức tranh, người mua được là một nhà sưu tập có tiếng ở Sài Gòn. Tuy có khuôn khổ khiêm tốn (100 x 70 cm), nhưng tác phẩm sơn mài này là một đỉnh cao toàn diện của tài năng Nguyễn Gia Trí. Một bố cục không tản mạn, không rời rạc, mà hợp nhau lại rất nhất quán trong một cảnh trí cổ kính mà vẫn mới mẻ, với bảng màu cực kỳ phong phú (có người tỉ mẩn đếm được 22 sắc độ) vừa nghiêm trầm với các gam màu rượu chát – củ dền, vừa lộng lẫy với ánh sáng vàng và vỏ trứng, quí giá với màu xanh ngọc, bức tranh có hiệu quả như tấm tranh kính nhà thờ trong ánh hoàng hôn. Tài nghệ dùng sắc độ để diễn tả những nếp mềm mại, những biến đổi ánh sáng trên các tấm áo choàng, đặc biệt là tài xử lý vỏ trứng ở đây đã đến điểm cực kỳ tinh tế. Cùng một mảng lớn, nhưng vỏ trứng được mài nông sâu uyển chuyển, có khi như trong suốt, để lớp màu nền bên dưới ánh lên khác nhau khiến các vật thể lung linh sống động, và nhất là tạo được sự biểu cảm của các gương mặt như trong những tranh Phục hưng.

Bản làng – Nguyễn Gia Trí

Bức Bản làng (tựa đề tiếng Anh: Provincial village) là tranh sơn mài gồm 6 tấm có kích thước tổng cộng 93,5 x 201 cm.

Trong phiên đấu giá “Modern and contemporary Southeast Asian art)” (Mỹ thuật Đông Nam Á hiện đại và đương đại) ngày 30-9-2017, bức Bản làng của Nguyễn Gia Trí được nhà Sotheby’s gõ búa ở mức 5,140,000 đô la Hồng Kông (gần 15 tỉ đồng theo thời giá) so với khung giá dự kiến 800.000-1.500.000 đô la Hồng Kông.

Cá hóa rồng – Nguyễn Gia Trí

Bức tranh Cá hóa rồng trên giấy khổ 60 x 80 cm dựa theo một truyện cổ tích kể rằng Ngọc Hoàng giao việc tạo mưa cho rồng, nhưng vì số lượng rồng có hạn, dân gian bị hạn hán nên Ngọc Hoàng cho tổ chức cuộc thi tuyển chọn con vật khác đủ bản lĩnh hóa thành rồng lo việc tạo mưa cho trần gian. Yêu cầu của cuộc thi là các con vật phải vượt qua ba tầng thác trên Vũ Môn (cửa mưa). Nhiều loài tôm cá dự thi nhưng không thể vượt qua ba tầng tháp. Đến lượt cá chép (lý ngư) vượt được qua ba tầng thác, hóa thành rồng bay đi phun nước làm mưa, tạo phúc cho muôn loài.

Cá hóa rồng (hoặc lý ngư hóa long) là biểu tượng của nỗ lực bản thân để thăng tiến trong công danh, sự nghiệp.

Ca dao:

Gái ngoan nên lấy chồng khôn
Cũng như cá vượt vũ môn hóa rồng.

Ý tưởng cá hóa rồng trong bức sơn mài trừu tượng này cần một ít trí tưởng tượng và cảm nhận sâu sắc.

Chân dung Nguyễn Tường Tam – Nguyễn Gia Trí

Dân làng, 1939 – Nguyễn Gia Trí

Dân làng (tựa đề tiếng Pháp: Les villageois) là bức bình phong sơn mài gồm 6 tấm, tổng cộng 99 x 198 cm. Chuyên gia gọi bức tranh này là “được cho là của Nguyễn Gia Trí”, do lo ngại từ Việt Nam về tranh giả.

Tại phiên đấu giá Modern Art Evening Sale ngày 30-9-2018 của nhà Sotheby’s Hong Kong, dù cho có nghi ngại về tranh giả, bức bình phong sơn mài Dân làng vẫn bán được 782.381 đô la Mỹ (khoảng 17 tỉ VNĐ). Đây là một trong năm bức tranh cao giá nhất của Nguyễn Gia Trí trên thị trường công khai.

Theo Văn Bảy (2018), chữ ký trên bức tranh “được cho là Nguyễn Gia Trí rất lạ”.

Đêm Thánh – Nguyễn Gia Trí

Bức tranh được Nguyễn Gia Trí vẽ năm 1941, đến nay được xem là bức tranh Giáng Sinh tiền đề và nổi tiếng nhất của Việt Nam.

Sinh thời, họa sĩ Nguyễn Gia Trí theo đạo Phật. Nhưng bức Đêm Thánh về đề tài Giáng Sinh của ông có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến các họa sĩ Việt Nam về sau.

Điều đặc biệt ở bức tranh là Nguyễn Gia Trí sử dụng kỹ thuật sơn mài đắp nổi, không phải kỹ thuật mài chìm như những bức tranh sơn mài khác. Vì việc này mà có những thời kỳ bức tranh bị xuống cấp do bụi bám, hoặc bong tróc ở những chỗ được đắp nổi.

Từ lúc ra đời, bức tranh Đêm thánh từng “lưu lạc” từ Hà Nội vào Sài Gòn, rồi qua tận Pháp, trước khi về Việt Nam.

Người có công đưa bức tranh quý này từ Pháp về Việt Nam là Linh mục Thiện Cẩm của Nhà thờ Mai Khôi. Ông đã qua đời tháng 2-2014. Lúc sinh thời, ông là người rất yêu quý và sẵn sàng kể những câu chuyện về bức tranh.

Những năm 1980s, bức tranh được họa sĩ Nguyễn Gia Trí phục chế lại một lần. Sau đó, Linh mục Thiện Cẩm bày tỏ mong muốn là bức tranh được phục chế một lần nữa do xuống cấp. Ông từng kể những năm 1960s, khi đang ở Pháp, ông thấy bức tranh sơn mài này được dùng làm vách ngăn chỗ các linh mục rửa tay làm lễ trong nhà thờ. Qua tìm hiểu ông nhận ra đây là bức tranh quý của họa sĩ Nguyễn Gia Trí nên tìm cách đưa trở lại Việt Nam.

Theo lời kể của Linh mục Thiện Cẩm lúc còn sống, năm 1941 có hai sĩ quan Pháp muốn đặt hàng một bức tranh về đề tài Công giáo cho một nhà thờ mới mở ở Hà Nội. Họ được những người Pháp khác khuyên rằng ở Việt Nam có hai người được xem là “biết vẽ”, đó là họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ sơn dầu và Nguyễn Gia Trí vẽ sơn mài. Hai sĩ quan tìm đến họa sĩ Nguyễn Gia Trí.

Thời kỳ này, tên tuổi họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã rất nổi tiếng. Có rất nhiều người Pháp đến đặt ông vẽ tranh. Khi hai vị sĩ quan Pháp đặt vấn đề, họa sĩ Nguyễn Gia Trí nêu yêu cầu là ông chỉ vẽ thánh Giuse, Đức mẹ Maria và Chúa Giêsu trong hình hài, trang phục của người Việt Nam. Đồng ý thì ông vẽ, nếu không đồng ý thì thôi.

Cuối cùng, hai vị sĩ quan Pháp đồng ý. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí tạo nên một bức tranh chủ đề Giáng Sinh hoàn toàn mang tinh thần Á Đông. Phía trên là ba thiên sứ trong hình ảnh các cô tiên Á Đông, mặc áo dài, gảy đàn tỳ bà. Ở giữa là Thánh Guse, Đức Mẹ Maria và Chúa Hài đồng cùng với một con trâu trắng. Thánh Guse và Chúa Hài đồng có hai ánh hào quang, Đức mẹ Maria có một ánh hào quang theo quan niệm Âm – Dương. Bên dưới là hình ảnh ba con người tượng trưng cho nhân loại: một người tỉnh thức, một người hoang mang, một người đang nằm ngủ.

Nơi lưu giữ tác phẩm: thuộc sở hữu của Nhà thờ Mai Khôi (Đường Tú Xương, Tp HCM).

Hai thiếu nữ [A] – Nguyễn Gia Trí

Bức Hai thiếu nữ này (tựa đề tiếng Anh: Two ladies như bức dưới) là tranh sơn mài có kích thước 37 x 45 cm.

Trong phiên đấu giá “Asian 20th century art (day sale)” (Ngày đấu giá Mỹ thuật Châu Á thế kỷ 20) ngày 28-5-2017, bức Hai thiếu nữ của Nguyễn Gia Trí được nhà Christie’s gõ búa với giá 475.000 đô la Hồng Kông (gần 1,4 tỉ đồng theo thời giá) so với khung giá dự kiến 250.000-350.000 đô la Hồng Kông.

Hai thiếu nữ [B] – Nguyễn Gia Trí

Bức Hai thiếu nữ này (tựa đề tiếng Anh: Two ladies như bức trên) là tranh sơn mài có kích thước 88 x 67 cm.

Nơi lưu giữ tác phẩm: không rõ (bán ngày 25-11-2018).

Hội xuân miền Bắc – Nguyễn Gia Trí

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh”, 1942 – Nguyễn Gia Trí

Trong ấn bản Truyện Thúy Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo) do Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Thế giới ấn hành tháng 11-2015, có một số phụ bản tranh minh họa lấy từ Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do Đào Duy Anh (2020) biên tập.

Bức tranh này minh họa đoạn Thúy Kiều ở lầu xanh, sau khi bán mình chuộc cha và trải qua việc bị Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa gạt, Thúy Kiều phải tiếp khách. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong. Đây là khoảnh khắc hiếm hoi Kiều được sống với chính mình.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Gìơ sao tan tác như hoa giữa đường.

Kỷ niệm đẹp – Nguyễn Gia Trí

Bức Kỷ niệm đẹp (tựa đề gốc tiếng Pháp: Se souvenir des belles choses; tựa đề tiếng Anh khi đấu giá: Beautiful memories) là tranh sơn mài trên gỗ có kích thước 67 x 100,5 cm.

Bức tranh dùng 4 màu đen, trắng, hồng và đỏ – khá khác thường trong tranh sơn mài nhưng thích hợp để thể hiện cảnh các thiếu nữ tụ họp vui chơi với nhau.

Trong phiên đấu giá “Asian 20th century art (day sale)” (Ngày đấu giá mỹ thuật Châu Á thế kỷ 20) tại Hongkong ngày 29-5-2016, bức tranh được nhà Christie’s gõ búa ở mức 1.180.000 đô la Hongkong (gần 3,4 tỉ đồng thời giá), so với khung giá dự kiến 500.000-700.000 đô la Hongkong.

Lễ hội đầu năm – Nguyễn Gia Trí

Đây là tranh sơn mài.

Người đàn bà – Nguyễn Gia Trí

Bức Người đàn bà (tên tiếng Anh: Woman) là tranh sơn mài có kích thước 60 x 80 cm.

Nhà Christie’s đặt khung giá dự kiến 300.000-400.000 đô la Hongkong cho phiên đấu giá ngày 02-12-2021.

Những phụ nữ trong vườn, thập niên 1980s – Nguyễn Gia Trí

Bức Những phụ nữ trong vườn (tựa đề tiếng Anh: Women in the garden) là tranh sơn mài có kích thước 120,5 x 183,5 cm, được ký tên “Ng Tri” ở góc dưới bên phải.

Lai lịch: Bức tranh này được một đại sứ nước ngoài ở Việt Nam mua trực tiếp từ tác giả.

Bức tranh được đánh giá cao vì: (1) kỹ thuật sơn mài phức tạp và hoàn thiện vào thời Nguyễn Gia Trí đạt đỉnh cao nghệ thuật; (2) kích thước lớn cho thấy công phu tác giả bỏ ra là rất lớn; (3) đề tài đậm chất văn hóa Việt với những thiếu nữ yêu kiều trong khung cảnh như cõi mộng. Xét qua thời giờ để hoàn tất một tranh sơn mài, bức tranh có chất lượng và kích thước như thế này thật là hiếm.

Nhìn cận cảnh mới thấy họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã kỳ công chăm chút từng chi tiết nhỏ, các đường nét bao phủ toàn bộ bề mặt của tác phẩm.

Trong phiên bán đấu giá ngày 26-5-2013, bức tranh được nhà Christie’s gõ búa ở mức 1,220.000 đô la Hồng Kông (hơn 3,3 tỉ đồng theo thời giá) so với khung giá dự kiến 800.000-1.000.000 đô la Hồng Kông.

Bức tranh sơn mài như thế này hao tổn công sức gấp nhiều lần so với một bức sơn dầu nhỏ hơn nhiều, nhưng tranh sơn dầu vẫn cao giá hơn, cho thấy người nước ngoài không đánh giá đúng mức giá trị của tranh sơn mài, còn người trong nước vẫn không thể nào với tới giá tranh sơn mài trên trường quốc tế.

Những thiếu nữ trong vườn [A], thập niên 1970s – Nguyễn Gia Trí

Bức Những thiếu nữ trong vườn này (tựa đề tiếng Anh khi đấu giá: Ladies in the garden như bức dưới) là tranh sơn mài có kích thước 135 x 95 cm, được ký tên “ng.Tri” ở góc dưới bên phải.

Nơi lưu giữ tác phẩm: không rõ (đã bán ngày 26-5-2019).

Những thiếu nữ trong vườn [B], 1973 – Nguyễn Gia Trí

Bức Những thiếu nữ trong vườn này (tựa đề tiếng Anh khi đấu giá: Ladies in the garden như bức trên) là tranh sơn mài có kích thước 95 x 154,5 cm.

Nơi lưu giữ tác phẩm: không rõ (đã bán ngày 11-7-20209).

Những thiếu nữ trong vườn [C], 1973 – Nguyễn Gia Trí

Bức Những thiếu nữ trong vườn này (tựa đề tiếng Anh khi đấu giá: Ladies in the garden như bức trên) là tranh sơn mài có kích thước 110 x 144 cm.

Nơi lưu giữ tác phẩm: không rõ (đã bán ngày 03-12-20209).

Những thiếu nữ Việt Nam, khoảng 1972 – Nguyễn Gia Trí

Bức Những thiếu nữ Việt Nam (tên tiếng Anh khi đấu giá: Vietnamese ladies) là tranh sơn mài được ký tên ‘NG. Tri’ ở góc dưới bên phải, kích thước 120 x 180 cm. Điểm đặc biệt ở bức tranh này là chỉ có một tấm khổ lớn thay vì nhiều tấm khổ nhỏ như thường thấy. Điểm đặc biệt khác là Nguyễn Gia Trí vẽ từng chi tiết đường nét trên toàn bộ bề mặt.

Bức tranh cho thấy những thiếu nữ Việt Nam trong tà áo dài đi dạo chơi, đánh đàn hoặc thoải mái nằm giữa phong cảnh hoa lá. Ba người họp thành nhóm ca trù gồm một người đàn tỳ bà và hai người hát.

Việc sử dụng vỏ trứng đạt đến nghệ thuật bậc thầy trong bức tranh này, như có thể thấy biểu cảm trên các khuôn mặt.

Ngày 26-5-2018, bức tranh được nhà Christie’s gõ búa ở mức 875.000 đô la Hồng Kông (gần 2,6 tỉ đồng theo thời giá) so với giá dự kiến 800.000-1.200.000 đô la Hồng Kông.

Phác thảo sen – Nguyễn Gia Trí

Phác thảo hoặc ký họa (tiếng Anh: sketch) là bức vẽ đơn giản, được thực hiện như một bước đệm cơ bản trước khi họa sĩ vẽ nên tác phẩm của chính họ. Phác thảo thể hiện những nét vẽ nhanh, có thể chưa được trau chuốt, nhưng cho cái nhìn tổng quan để dựa theo đó họa sĩ thực hiện tác phẩm hoàn chỉnh. Một bản vẽ phác thảo phải bao gồm các yếu tố cơ bản cần thiết của tác phẩm chính như: hình dạng tổng thể, cảm giác thể tích, về ánh sáng và bóng mát.

Nhiều phác thảo của Nguyễn Gia Trí được vẽ kỹ ở mức độ gần như tác phẩm và được các gallery chào bán.

Đây là tranh mực sơn ta trên giấy can có kích thước 51 x 71,5 cm.

Phác thảo “Thiếu nữ bên Hồ Gươm” – Nguyễn Gia Trí

Đây là phác thảo cho tranh sơn mài cùng tên. Phác thảo được vẽ bằng mực sơn ta trên giấy.

“Phong cảnh đồng quê Bắc Bộ”– Nguyễn Gia Trí

“Phong cảnh đồng quê Bắc Bộ” (tựa đề tiếng Anh khi bán đấu giá: Country scene in the North of Vietnam) không phải là tựa đề chính thức, mà là cụm từ miêu tả nội dung tranh trên mặt một hộp sơn mài có kích thước 23 x 45,5 x 8,5 cm.

Các cây chuối ở tiền cảnh được dát vàng làm ranh giới cho một khung cảnh làng Việt Nam cuốn hút và an bình, cho thấy cuộc sống thường nhận vùng nông thôn. Một phụ nữ đơn độc gánh lương thực di ngang qua khung cảnh. Chỉ với một ít màu sơn mài cơ bản (đen, nâu, màu hoàng thổ, bột vàng và ít ánh bạc), nhà nghệ sĩ chứng tỏ tài năng bậc thầy trong nghệ thuật sơn mài. (sothebys.com)

Chiếc hộp sơn mài được nhà Sotheby’s bán đấu giá ở mức 175.000 đô la Hồng Kông (22.407 đô la Mỹ) so với giá dự kiến 35.000-55.000 đô la Hồng Kông.

Thiếu nữ trong vườn, 1942-1945 – Nguyễn Gia Trí

Theo Thụy Khuê (2019), ảnh của tác phẩm này được đưa vào vựng tập Paris Hà Nội Sài Gòn do Paris Musées xuất bản năm 1998. Tựa đề tranh Les Fées có lẽ do Géraldine Galateau (chủ nhân của bức tranh) đặt sau này. Còn tên Thiếu nữ trong vườn do Hoàng Hưng ghi lại có lẽ là tên gốc của Nguyễn Gia Trí, nhưng không biết Hoàng Hưng chép lại ở đâu.

Nơi lưu giữ tác phẩm: Phòng Trưng bày Quốc gia Singapore.

Thiếu nữ trong vườn & Phong cảnh (Dọc mùng), 1939 – Nguyễn Gia Trí

Kiệt tác bình phong sơn mài này gồm có mặt thứ nhất tên Thiếu nữ trong vườn và mặt thứ hai tên Phong cảnh (còn được gọi là Dọc mùng). Tác phẩm được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sưu tầm năm 1978 tại Dinh Bảo Đại ở Đà Lạt và được giới chuyên môn cũng như giới sưu tập đánh giá là bức tranh sơn mài đẹp nhất Việt Nam.

Kỹ thuật xử lý chất liệu của Nguyễn Gia Trí đạt đến trình độ bậc thầy nên hiện trạng tổng thể bình phong tốt. Một số vết đạn bắn trên mặt tranh Thiếu nữ trong vườn đã được gắn vá. Các nhà nghiên cứu mỹ thuật đánh giá bức bình phong có giá trị đặc biệt xuất sắc về nghệ thuật, góp phần vào việc nghiên cứu sự giao lưu văn hóa Đông – Tây trên phương diện nghệ thuật tạo hình.

Tác phẩm bao gồm 8 tấm vóc ghép lại thành bình phong hình chữ nhật có kích thước chung 160 x 400 cm. Mỗi mặt tranh là một tác phẩm hội họa độc lập, nhưng hợp lại thành tổng thể thống nhất về phong cách nghệ thuật đặc trưng của Nguyễn Gia Trí. Đó là bố cục chặt chẽ, hình mảng chọn lọc, chi tiết tinh tế, màu sắc đằm thắm và đậm chất lãng mạn, mộng mơ. Thiếu nữ trong vườnPhong cảnh là sự kết hợp hài hòa giữa lối tạo hình hiện đại phương Tây và tinh thần thẩm mỹ Á Đông, được thể hiện bằng chất liệu sơn của Việt Nam kết hợp với vỏ trứng, vàng, bạc, son, vừa lộng lẫy sang trọng, vừa lung linh sâu thắm.

Mặt tranh Thiếu nữ trong vườn đậm chất cao sang và trang nhã. Trên nền vàng lộng lẫy là hình ảnh các thiếu nữ duyên dáng áo dài thướt tha trong khung cảnh hoa lá, cây cỏ thơ mộng. Tinh thần thư nhàn toát lên từ sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên cảnh vật. Bằng sự nghiên cứu chắt lọc về hình và khả năng diễn tả chất liệu đặc sắc, Nguyễn Gia Trí khắc họa nổi bật vẻ đài các của mệnh phụ, tâm trạng mơ mộng của thiếu nữ tuổi đang yêu, nét hồn nhiên, ngây thơ của thiếu nữ mới lớn. Từ tà áo nhẹ bay trong gió, cành hoa lá mềm mại, khóm chuối xao động, đến dáng vẻ nhân vật và đồ vật giàu chất trang trí đều là những chi tiết đắt về hình được thể hiện bằng những đường nét bay bướm, thanh thoát. Sự sống động của nhân vật và khung cảnh hấp dẫn người xem vào thế giới sơn mài huyền ảo của Nguyễn Gia Trí. (Bùi Thị Thanh Mai, 2018)

Đối lập với vẻ đẹp nhẹ nhàng của mặt Thiếu nữ trong vườn, mặt Phong cảnh diễn tả cây dọc mùng bằng đường nét vẽ khỏe khoắn. Những mảng vỏ trứng lung linh kết hợp với sắc đỏ của son, ánh rực rỡ của vàng, độ sâu thắm của sơn then và cánh gián đã làm cho khóm dọc mùng trở nên hấp dẫn đặc biệt, nổi bật giữa các cây cỏ xung quanh. Phong cảnh nông thôn Bắc Bộ qua tác phẩm này hiện lên lộng lẫy và sâu thắm. Khóm cây dọc mùng bình dị trở nên sang quý lạ thường qua tài năng tạo hình và khả năng diễn tả sơn mài đạt đến đỉnh cao của họa sư Nguyễn Gia Trí.

Ước mơ về một chất liệu sáng tác hội họa mang bản sắc dân tộc thôi thúc các sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương tìm tòi nghiên cứu để sáng tạo nên kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, kỹ thuật và chất liệu chỉ là phương tiện để giúp người nghệ sĩ chuyển tải ý tưởng tạo hình, những cảm xúc và niềm đam mê. Tranh sơn mài Việt Nam trở nên nổi tiếng trên thế giới chính là nhờ vào sự cống hiến tài năng, trí lực và tâm huyết của Nguyễn Gia Trí.

Bức bình phong sơn mài hai mặt Thiếu nữ trong vườnPhong cảnh của Nguyễn Gia Trí được Việt Nam xếp hạng xếp hạng là Bảo vật Quốc gia và được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Trừu tượng [A] – Nguyễn Gia Trí

Trừu tượng [A] là tranh bằng chất liệu tổng hợp khổ 54 x 87 cm.

Nơi lưu giữ tác phẩm: Bình Minh Art Gallery (có thể được bán bất kỳ lúc nào).

Trừu tượng [B] – Nguyễn Gia Trí

Trừu tượng [B] là tranh sơn mài với chất liệu tổng hợp khổ 43,5 x 33,5cm.

Người xem tranh có thể không hiểu nội dung của tác phẩm này, nhưng nhà đấu giá và các nhà sưu tập vẫn đánh giá cao. Ngày 29-11-2015, bức tranh được nhà Christie’s gõ búa ở mức 400.000 đô la Hồng Kông (gần 1,14 tỉ đồng theo thời giá) so với khung giá dự kiến 300.000-400.000 đô la Hồng Kông.

Vườn xuân, 1970 – Nguyễn Gia Trí

Vườn xuân (tựa đề tiếng Anh: Springtime garden) là tranh sơn mài có kích thước 120 x 180 cm.

Ghi chú: có một bức sơn mài khác của Nguyễn Gia Trí cũng có tựa đề là Vườn xuân được ghi kích thước 61 x 88 cm, với nội dung tương tự nhưng có một số chi tiết khác biệt dễ nhận, trong sưu tập tư nhân ở Việt Nam.

Vườn xuân Trung Nam Bắc, 1989 – Nguyễn Gia Trí

Đây là tác phẩm sơn mài được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Tác phẩm Vườn xuân Trung Nam Bắc được danh họa Nguyễn Gia Trí sáng tác vào giai đoạn đất nước còn trong khói lửa chiến tranh. Tác phẩm như lời nguyện cầu thống nhất và hạnh phúc cho quê hương. Tranh được sáng tác trong 20 năm ròng rã, khởi đầu từ năm 1969 và hoàn thành năm 1989. Tâm tư về sự thống nhất đất nước thể hiện trong bức tranh này là nỗi ám ảnh sâu xa nhất trong những năm cuối đời Nguyễn Gia Trí.

Sau năm 1975, cảnh thay đổi ở Miền Nam thực quá phũ phàng, Nguyễn Gia Trí dường như không còn muốn sáng tác nữa (redsvn.net). Vườn xuân Trung Nam Bắc là một bức tranh dở dang, do một nhà doanh nghiệp đặt họa sĩ làm từ trước thời điểm 1975. Về sau, người đặt tranh đang ở Pháp tặng lại quyền sở hữu cho họa sĩ, và ông hoàn tất bức tranh cũng chỉ mới trong vài năm cuối đời khi ông còn đủ sức khỏe. Vì thế, việc hoàn thành bức Vườn xuân Trung Nam Bắc là một thành tựu đặc biệt của danh họa.

Sau 1975, trong điều kiện khó khăn của Sài Gòn một thời kỳ dài, Nguyễn Gia Trí vẫn quyết tâm hoàn thành tác phẩm lớn mà ông biết sẽ là cuối cùng của đời mình. Để nuôi sống gia đình một cách khiêm nhường và đầu tư cho tác phẩm này, ông phải làm những tranh nhỏ để khách mang “chui” ra nước ngoài (vì tranh Nguyễn Gia Trí đã nằm trong danh mục “văn hoá phẩm quý cấm xuất khẩu”). Vậy mà lúc tranh đang làm dở, có người trả 14 lượng vàng nhưng ông không chịu bán. Mãi cho đến năm 1990, khi UBND Tp HCM quyết định mua tác phẩm, nó vẫn chưa hoàn chỉnh như ý đồ của họa sĩ. Một phần vì khó khăn về nguyên liệu (bà Trí phải bán dần vóc và son để mua từng thếp vàng cho tranh). Phần quan trọng là vì họa sĩ bắt đầu lâm bệnh: trận tai biến mạch máu não đầu tiên xảy ra vào năm 1988, sau đó còn hai lần nữa trước khi ông qua đời. Do đó khâu làm vàng mặt tranh ông phải giao phó cho học trò là Nguyễn Xuân Việt.

Tác phẩm Vườn xuân Trung Nam Bắc tổng hợp mọi thành tựu trong nửa thế kỷ tìm tòi sáng tạo về sơn mài của Nguyễn Gia Trí với những yếu tố của đề tài “thiếu nữ trong vườn” quen thuộc được bổ sung, đổi mới. Sự cộng hưởng giữa các chất liệu vàng son vỏ trứng trong bố cục phối hợp nhịp nhàng các hình họa khiến bức tranh như một bản giao hưởng mà mọi thành phần đều vang lên cùng một lúc, lại như màn vũ kịch trong đó các nhân vật cùng cây lá, nhóm thì tĩnh tại làm nền cho những nhóm chuyển động với các cấp tiết tấu khác nhau. Trung tâm bức tranh là nhóm thiếu nữ Trung Nam Bắc trong trang phục hơi xưa. Cạnh đó là hai đứa bé như trong tranh dân gian cưỡi con kỳ lân huyền thoại chạy chơi. Phía sau là ngôi miếu cổ nhỏ nhưng trang nghiêm. Xen với các nét văn hoá truyền thống đó là không khí hiện đại tạo bởi hai nhóm thiếu nữ áo trắng múa quay tròn. Nhóm bên trái giữ mức tiết tấu vừa phải, còn ba cô gái bên phía tay phải, thần bút Nguyễn Gia Trí hiện hình được cái ảo, cái cuộn bay, cảm giác chóng mặt của vũ điệu quay tít có sức quyến rũ ma thuật, nếu nhìn lâu ắt phải “nhập đồng” theo. Khó hình dung họa sĩ làm thế nào giữ được cảm xúc một hơi trên cả tấm tranh lớn như vậy qua một thời gian dài, một sự “xuất thần suốt hai chục năm” như nhận xét của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt. Xúc cảm ấy bộc lộ rõ trong từng mảng vỏ trứng thể hiện tà áo tung bay, trong từng mảng lá phượng chuyển sắc tinh tế, trong đôi bướm vờn sống động… Với kiệt tác này, thật sự Nguyễn Gia Trí đã đạt được mong muốn của mình: “Vẽ tranh muốn 10 năm như 1 giờ, vóc trăm cân như không còn trọng lượng.” (Hoàng Hưng, 2017)

Họa phẩm mô tả không khí ngày xuân và hình ảnh các thiếu nữ ba miền Trung, Nam, Bắc trong trang phục truyền thống từng vùng, trảy hội xuân với khung cảnh chùa chiền, cây cối.

Cũng như những tác phẩm sơn mài cùng thời, Vườn xuân Trung Nam Bắc không có nhiều màu sắc mà chủ yếu là đỏ, đen, vàng, trắng. Vậy nhưng sức hấp dẫn đến ma mị của tác phẩm đủ mạnh để làm lay động những ai đứng trước nó.

Dưới đây là một số ảnh cho thấy toàn thể toàn bộ và từng phần của bức tranh – màu trong mỗi ảnh khác nhau do cường độ và góc độ chiếu sáng khác nhau khi chụp ảnh.

Đây là một bức tranh vĩ đại theo cả nghĩa vật lý và mỹ thuật. Người ta có thể chia bức tranh thành nhiều bức nhỏ hơn, và mỗi bức nhỏ tự nó cũng là kiệt tác.

Trung tâm bức tranh là nhóm phụ nữ ba miền Trung – Nam – Bắc trong trang phục cổ xưa.

Cạnh đó là hai đứa bé như trong tranh dân gian cưỡi con kỳ lân huyền thoại chạy chơi. Phía sau là ngôi miếu cổ nhỏ nhưng trang nghiêm.

Xen với các nét văn hóa truyền thống đó là không khí hiện đại được thể hiện qua bởi nhóm thiếu nữ áo trắng múa quay tròn.

Nhìn tổng thể tác phẩm, chỗ tĩnh, chỗ động khiến cho người xem cảm nhận nhịp sống thật trong tranh. Sự tài tình khi phối hợp giữa chất liệu vàng son với vỏ trứng cũng được bậc thầy sơn mài Việt Nam thể hiện nhịp nhàng, khéo léo.

Ngắm nhìn tác phẩm, người xem cảm thấy như mình được trở về miền ký ức với cảnh sắc thiên nhiên đầy sức sống, với vẻ đẹp thiếu nữ dịu dàng – tất cả không thể hoàn mỹ hơn.

Dọc theo hai đường viền bên trái và bên phải của bức tranh là hai câu thơ chữ Hán của nhà văn hóa Đào Duy Từ, tạm dịch là:

Bóng trăng như đèn tỏa sáng trên mặt nước
Hương hoa thoang thoảng bay theo gió đưa.

Tác phẩm là sự tổng hợp mọi thành tựu trong nửa thế kỷ tìm tòi sáng tạo về nghệ thuật sơn mài. Đây là bức tranh có thời gian tâm huyết lâu nhất, ứng dụng nhiều đúc kết trong nghệ thuật nhất, có kích thước lớn nhất (200 x 540 cm) và là một trong những sáng tác cuối cùng của cuộc đời họa sĩ Nguyễn Gia Trí. (Mai Nhật, 2019)

Theo nhà thơ Hoàng Hưng: “Lúc tranh Vườn Xuân Trung Nam Bắc đang làm dở, có người trả 14 lượng vàng ông không chịu bán. Mãi cho đến năm 1990, khi UBND Tp HCM quyết định mua tác phẩm, nó vẫn chưa hoàn chỉnh như ý đồ của họa sĩ. Một phần vì khó khăn về nguyên liệu (bà Trí phải bán dần vóc và son để mua từng thếp vàng cho tranh). Phần quan trọng là vì họa sĩ bắt đầu lâm bệnh: trận tai biến mạch máu não đầu tiên xảy ra vào năm 1988, sau đó còn hai lần nữa trước khi ông qua đời. Do đó khâu làm vàng mặt tranh ông phải giao phó cho học trò là Nguyễn Xuân Việt”. “Dấu ấn” của Nguyễn Xuân Việt và vài chỗ chưa hoàn chỉnh trong tác phẩm hiện vẫn còn nhìn thấy, ví dụ như áo dài mất màu của thiếu nữ trong tấm thứ 4, hay của cây đàn tranh trong tấm thứ 5, từ trái sang. Tuy vậy, tác phẩm này vẫn xứng đáng là kiệt tác của sơn mài Việt Nam.

Tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc được UBND Tp HCM mua vào năm 1991, với số tiền 600.000.000 đồng khi đó. Nếu tính theo quy định tiền lương, trợ cấp và sinh hoạt phí, đến năm 2019 trị giá “cứng” của bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc là 39,72 tỉ đồng (Hà Nhì, 2019).

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Mỹ thuật Tp HCM.

Ghi chú: Những bức ảnh ở trên được chụp trước khi xảy ra một sự cố đau lòng: Bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc bị hư hại do việc dùng nước rửa chén, bột chu và giấy ráp 2000 khi làm vệ sinh bề mặt từ cuối tháng 12-2018 đến tháng 2-2019.

Họa sĩ Lương Xuân Đoàn  –  Phó Chủ tịch Thường trực Hội Mỹ thuật Việt Nam  –  cho rằng bề mặt bức tranh từ “âm” nay đã chuyển thành “dương”, nhiều phần chất liệu được họa sĩ Nguyễn Gia Trí vốn xử lý kín kẽ đã bị lộ thiên. (Mai Thụy, 2019)

Họa sĩ Siu Quý  –  Phó Chủ tịch Hội Mỹ thuật Tp HCM  –  cho biết cá nhân ông thấy bức tranh đã mất đi đến 70% cái thần tinh túy. (Mai Thụy, 2019)

Các chuyên gia khác nhau đánh giá bức tranh bị hỏng 10% hoặc 30% hoặc 70%. Ông Nguyễn Xuân Việt (người học trò kề cạnh những năm cuối đời của Nguyễn Gia Trí) cho biết “đó chỉ là đánh giá vật chất trên bề mặt, còn cái thần của tranh thì bị mất rất nhiều”, và “mức độ hư hại của tác phẩm không thể tính bằng con số, bởi bề mặt tranh đã bị tổn thương nghiêm trọng”. Ông Vi Kiến Thành (Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cho rằng khó có thể phục hồi bức tranh nguyên trạng như trước đây, bởi yếu tố quan trọng hàng đầu của tranh sơn mài (phần hồn, tinh thần và không khí trong tranh) đã bị ảnh hưởng, hư hại khá nhiều. Riêng trang web của Tạp chí Mỹ thuật cho rằng “Thảm họa đã rất rõ ràng, và có thể nói, tình trạng hư hại là vô phương cứu chữa.” (Lê Công Sơn, 2019; Hà Nhì, 2019; Mai Nhật, 2019; Mai Thụy, 2019; Minh Thi, 2019; Phương Mai, 2019).

Theo Nguyên Khánh (2019), “ Đánh giá về mức độ hư hại của tác phẩm, Cục trưởng Vi Kiến Thành cho biết sự hư hại khá lớn ở cả hai khía cạnh. Thứ nhất là về mặt tinh thần, không khí và phần hồn của tác phẩm bị hư hại khá nhiều. Thứ hai về vật chất, các mảng vỏ trứng bị trơ, trắng bệnh mảng dát vàng, mảng son bị mài mòn và hư hại về bề mặt tranh khá nhiều.”

Họa sĩ Phạm Hà Hải gay gắt: “Đến giờ, bức tranh có còn đủ tư cách để trưng bày như là một bảo vật quốc gia hay không? Về nguyên tắc bảo tàng học, khi đang còn gây tranh cãi thì cần có ứng xử phù hợp. Nên cân nhắc việc trưng bày như thế có xúc phạm đến tác giả Nguyễn Gia Trí hay không? Có vô tình làm thay đổi nhận thức theo chiều hướng không đúng về một tác gia vĩ đại của nền mỹ thuật Việt Nam hay không? Có thể phải dùng đến giải pháp để bức tranh trong một khu vực cho các nhà chuyên môn nghiên cứu, chứ với việc đánh mất vẻ đẹp tinh thần của bức tranh như hiện tại thì khó có thể trưng bày với tư cách một bảo vật cho công chúng thưởng thức.” (Hòa Bình, 2019)

Cho đến tháng 4-2024, tác giả bài tổng hợp này không thể tìm thấy thông tin gì về việc tu sửa bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc.

Xem video:
“Vườn xuân Trung Nam Bắc”: Phục dựng lại là bất khả thi. https://www.youtube.com/watch?v=kRBBw3KDJIw

Tranh Tô Ngọc Vân

Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim, 1940 – Tô Ngọc Vân

Bức Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim (tựa đề tiếng Pháp: Trois jeunes femmes en ao dai et trois oiseaux, tựa đề tiếng Anh: Three young women in ao dai and three birds) là tranh lụa dán trên một tờ giấy và lót bằng lụa vàng, khổ 70 x 48 cm.

Nguồn gốc tranh: giáo sư của Tô Ngọc Vân ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và cũng là Kiến trúc sư trưởng Đông Dương tiếp nhận bức tranh này năm 1940 và sau đó gia đình ông lưu giữ cho đến ngày lên sàn Drouot-Richelieu.

Nơi lưu giữ tác phẩm: không rõ (sàn Drouot-Richelieu đã bán ngày 24-1-2017).

Hai thiếu nữ và em bé, 1944 – Tô Ngọc Vân

Đây là tác phẩm sơn dầu trên toan (canvas) khổ 102 x 72 cm, được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Theo đánh giá của Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản Văn hóa làm tiền đề cho việc công nhận Bảo vật Quốc gia (dsvh.gov.vn):

Bức tranh vẽ một không gian thanh bình với hai phụ nữ mặc áo dài tha thướt ngồi tâm sự ngoài hiên nhà, bên cạnh có một bé trai đang ngồi chơi. Ba nhân vật được bố cục dạng tam giác tạo nên trạng thái tĩnh lặng, cân bằng, êm ả. Cùng với hòa sắc màu vàng ấm bao trùm, tác giả tạo nên một hòa quyện tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên và dáng nét biểu cảm mền mại của hai người phụ nữ trong y phục áo dài truyền thống đằm thắm trang nhã.

Nét đặc sắc của bức tranh: Bố cục dạng hình tam giác trong khung hình dọc của ba nhân vật là lối thức bố cục rất cổ điển của nghệ thuật hội họa phương Tây. Tuy nhiên, không gian êm đềm với chiếc trõng tre, mành tre và cây vông hoa trắng, cùng trang phục áo dài của các nhân vật nữ lại thể hiện ra quang cảnh rất phương Đông, cũng như rất Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Bức tranh tạo ra sự kết hợp đầy rung cảm của tâm hồn phương Đông cùng lối diễn họa học tập từ phương Tây đương thời.

Đây là hiện vật nguyên gốc và độc bản và là tác phẩm được rất nhiều các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá cao với đầy đủ các giá trị như:

** Giá trị lịch sử: tác phẩm đánh dấu một giai đoạn mỹ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20.

** Giá trị thẩm mỹ: tác phẩm mang phong cách riêng biệt của họa sĩ Tô Ngọc Vân, bậc thầy của nền mỹ thuật Việt Nam Cận đại. Tác phẩm là sự kế thừa phong cách tạo hình phương Tây nhưng lại được hòa quyện trong một tinh thần phương Đông rõ nét. Với chất liệu sơn dầu, tác phẩm toát nên sự tinh tế trong biểu cảm hình ảnh phụ nữ Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20.

** Giá trị văn hóa: Tác phẩm phản ánh nét đặc trưng của văn hóa xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, trong cái nhìn của những trí thức thời bấy giờ. Đây là một trong những tác phẩm đỉnh cao của họa sĩ Tô Ngọc Vân tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thế hệ sau. Bức tranh là một trong những điểm nhấn góp phần vào việc nghiên cứu các yếu tố, giá trị giao lưu văn hóa Đông–Tây trên bình diện nghệ thuật tạo hình.”

Nơi lưu giữ tác phẩm: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Thiếu nữ bên hoa huệ, 1943 – Tô Ngọc Vân

Năm 1925, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, góp phần khai sinh ra nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam đầy riêng biệt và đặc sắc. Đóng góp vào lịch sử mỹ thuật là thế hệ họa sĩ đầu tiên cùng những tìm tòi sáng tạo không mệt mỏi. Họ tự thách thức bản thân và vượt lên cùng những tác phẩm bất hủ ghi nhận những dấu ấn không thể phai mờ bằng những tác phẩm để đời.

Tác phẩm đầu tiên phải kể đến có lẽ là tác phẩm Thiếu nữ bên hoa huệ của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Đây cũng là một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của mỹ thuật Việt Nam cận đại bởi cách thức tạo hình. Có thể xem bức tranh là một dấu ấn về sự tiếp nhận ảnh hưởng của hội họa Ấn tượng Pháp vào mỹ thuật Việt Nam.

Bằng việc vẽ những lớp sơn dầu mỏng tang, cô thiếu nữ tầm tuổi đôi mươi trong tà áo dài trắng, trầm tư bên những cánh hoa huệ tây, như hiện lên cùng sự trong trẻo của tâm hồn. Sự tài tình của bức tranh chính là việc họa sĩ tạo ra một đường cong khép kín giữa bông hoa và hai cánh tay, khiến cho khuôn mặt của cô gái trở thành trọng tâm của khuôn hình. Ở đó, sắc đỏ duy nhất ửng lên gò má, đôi môi làm bức tranh càng trở nên quyến rũ. Có thể nói sự ảnh hưởng của hội họa Ấn tượng ở đây không phải là bút pháp mà chính là việc khắc họa thời khắc và sự khái quát của những mảng màu mà gam chủ đạo lại là trắng. Trắng trên sắc áo, trắng trên cánh hoa và thậm chí cả chiếc bình bát tràng với đầy đủ tiết tấu màu. (Trang Thanh Hiền, 2021)

Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ được coi là một kiệt tác, kết hợp nhẹ nhàng giữa các gam màu trắng tạo nên sự giản dị, và cũng mang đôi nét buồn buồn.

Thiếu nữ bên hoa huệ là bức tranh đi liền với tên tuổi danh họa Tô Ngọc Vân. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật Việt Nam. Tranh thể hiện chân dung thiếu nữ mặc áo dài trắng nghiêng mình về phía bình huệ tây trắng (hoa loa kèn). Hình dáng cô gái cùng không gian toát lên nét dung dị, buồn vương vấn, nhẹ nhàng. Bên cạnh giá trị nghệ thuật, tranh thể hiện thú chơi hoa loa kèn tao nhã của người Hà Nội, loài hoa nở rộ vào cuối tháng 3 và tháng 4 hàng năm. (Lam Thu, 2016)

Người mẫu trong bức tranh sơn dầu Thiếu nữ bên hoa huệ là cô con gái của họa sĩ. Cô còn là người mẫu cho nhiều tác phẩm khác.

Bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân có lịch sử lưu lạc ly kỳ và đáng tiếc.

Sau này bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ được bán cho nhà sưu tập tranh nổi tiếng Đức Minh.

Thiên Điểu (2018) cho biết:

“ Bức Thiếu nữ bên hoa huệ của họa sĩ Tô Ngọc Vân từng nằm trong số hơn 1.000 tác phẩm mà nhà sưu tập Đức Minh muốn hiến tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mà không thành”.

Và:

“ … giới hội họa lại cũng chưa nguôi ngoai niềm xót xa trước những lần Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam từ chối tiếp nhận những bộ sưu tập quý giá được hiến tặng, vì những lý do mà đến nay những người trong cuộc vẫn ngại ngùng tiết lộ.

“… đáng tiếc nhất là lần từ chối bộ sưu tập hơn nghìn bức tranh trong bộ sưu tập quý giá bậc nhất của nhà sưu tập Đức Minh (Bùi Đình Thản) vào năm 1967, trong đó có nhiều bức được ông Minh lặn lội tới Pháp mua về với giá rất đắt.

“Ông Bùi Quốc Chí – con trai nhà sưu tập Đức Minh – kể cha ông có nguyện vọng hiến toàn bộ bộ sưu tập cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chỉ với điều kiện bảo tàng cần ghi 4 chữ ‘Sưu tập Đức Minh’ ở phần trưng bày. Nhưng lúc đó do điều kiện xã hội chưa cho phép nên bảo tàng không nhận.”

Sau khi ông Đức Minh qua đời, các con ông bán tác phẩm Thiếu nữ bên hoa huệ cho một người sưu tầm tên là Hà Thúc Cần với giá 15.000 đô la Mỹ. Sau đó, ông Cần bán lại tác phẩm nổi tiếng này ra nước ngoài.

Hiện nay không ai biết bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ đang lưu lạc ở phương trời nào.

Văn Bảy (2019c) đánh giá: “Bức gốc này mà lên sàn đấu giá, triệu đô là bình thường.”

Ghi chú: Shinstyle (2019) cho rằng các bức hình hiện nay trên mạng đều chụp tranh chép lại tác phẩm gốc. Với một tình yêu lớn, một sự kính trọng họa sĩ Tô Ngọc Vân, các họa sĩ tiến hành phục chế thành một bản kỹ thuật số dựa trên nghiên cứu màu sắc, bút pháp từ các tác phẩm còn lại của Tô Ngọc Vân tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Hình bên là ảnh của bản kỹ thuật số.

Thợ thêu, 1932 – Tô Ngọc Vân

Bức tranh lụa Thợ thêu (tựa đề tiếng Pháp: Les brodeuses), kích thước 68 x 68 cm, được Văn Bảy (2019c) cho là kiệt tác lụa của Tô Ngọc Vân, do sự quý hiếm, giá trị tạo hình và tình trạng bảo quản. Bức này từng xuất hiện tại một triển lãm vào cuối năm 2012 tại Bảo tàng Cernuschi (Paris, Pháp) và được chọn in trên bìa của vựng tập.

Nơi lưu giữ tác phẩm: sưu tập tư nhân.

Tranh bìa Xuân “Ngày nay”, 1940 – Tô Ngọc Vân

“Tú bà ghé lại thong dong dặn dò”, 1942 – Tô Ngọc Vân

Trong ấn bản Truyện Thúy Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo) do Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Thế giới ấn hành tháng 11-2015, có một số phụ bản tranh minh họa lấy từ Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do Đào Duy Anh (2020) biên tập.

Bức tranh này minh họa đoạn Tú Bà dặn dò Thúy Kiều sau khi Kiều bị Sở Khanh gài bẫy.

Vừa tuần nguyệt sáng gương trong
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”

Riêng đối với người tổng hợp bài này, nội dung bức tranh có phần thiếu thuyết phục: trong khi Tú Bà đang thong dong dặn dò với vẻ không dữ dằn gì, lý do nào các kỹ nữ phải khỏa thân? Có phải chi tiết này là gượng ép chỉ vì muốn mô tả quang cảnh thanh lâu?

Vỡ mộng, 1932 – Tô Ngọc Vân

Bức Vỡ mộng (tựa đề gốc tiếng Pháp: Les Désabusées) là tranh được vẽ bằng mực tàu và bột màu trên lụa khổ 92,5 x 57 cm.

Theo nhà môi giới nghệ thuật Linh Cao, chủ Gallery 42, Hà Nội (Văn Bảy, 2019c):

“ Bức Vỡ mộng đẹp tự thân, nhiều chất Đông Đương, nên dễ tạo sức hút với khách quốc tế. Tô Ngọc Vân vẽ rất ít tranh lụa, nên tự nó đã thành quý hiếm, cộng với khổ tranh khá lớn, tình trạng bảo quản tốt, xuất xứ rõ ràng, nên càng đáng giá. Về nghệ thuật, nó có sự đối thoại thầm kín phương Đông giữa hai nhân vật, kiệm lời nhưng nhiều ý. Xét nét thì thấy vẽ chưa thật kỹ lưỡng, nhưng nhìn chung dáng vẻ thần thái đẹp, gam màu ngọt, chuẩn như mong đợi”.

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Ngô Kim Khôi phân tích (Văn Bảy, 2019c):

“ Màu sắc trong tranh rất dịu dàng và trong trẻo, những sợi tơ lụa như dệt lên gương mặt của người mẫu, làn da mỏng manh mộng tàn. Ngay cả dáng dấp của người mẫu cũng mảnh mai yếu đuối, như mời gọi sự nâng niu… Tuy rằng chủ đề hơi buồn, nhưng nhìn vào tranh người ta thấy thần thái tranh Việt, với kỹ thuật và nét bút đặc thù của nó”.

Dù không đánh giá cao về bố cục và tạo hình của Vỡ mộng, nhà nghiên cứu Phạm Long cho chúng ta biết một số lý do để tác phẩm này đạt giá cao (Văn Bảy, 2019c):

“Thứ nhất, Tô Ngọc Vân là người có danh tiếng lớn, nằm trong ‘Bộ Tứ’ đầu tiên, từng dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từng phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc từ năm 1950. Thứ hai, tranh lụa của ông hiếm hơn sơn dầu và một hai chất liệu khác, đa số đã được bán trước năm 1945, nếu ai bảo quản tốt, rõ ràng về xuất xứ, thì ngày nay sẽ càng thu hút. Thứ ba, cơn sốt đầu tư vào tranh Đông Dương đang lên nhanh, các đại gia Việt Nam đang có xu hướng đầu tư vào tranh Đông Dương để nhanh quay vòng vốn, thay vì thị trường bất động sản đang chững lại và nhiều lùm xùm. Thứ tư, tranh Đông Dương dù có tiếng xấu là nhiều tranh giả, khó xác minh, nhưng hiện nay Việt Nam chưa có khả năng kiểm định tốt, đủ uy tín, nên các nhà buôn tranh không sợ lỗ, vẫn tìm được khách hàng, xác suất bán lại thu lời vẫn cao”.

Trong buổi đấu giá có tựa đề “20th century & contemporary art” (Mỹ thuật thế kỷ 20 & đương đại) ngày 26-5-2019 tại Christie’s Hong Kong, bức Les Désabusées của Tô Ngọc Vân được gõ búa với mức 9.125.000 đô la Hongkong (hơn 1,1 triệu đô la Mỹ tức hơn 27 tỉ đồng theo thời giá) so với khung giá ước lượng 2-3 triệu đô la Hongkong.

Tranh Nguyễn Tường Lân

Chợ miền núi – Nguyễn Tường Lân

Nơi lưu giữ tác phẩm: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Đôi bạn – Nguyễn Tường Lân

Nơi lưu giữ tác phẩm: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Làng chài, 1934 – Nguyễn Tường Lân

Bức có tựa đề tiếng Anh là Landscape with fishing boats. Đây là tranh mực Tàu và bột màu trên lụa khổ 40 x 104 cm.

Trong các tranh lụa thời kỳ đầu của Nguyễn Tường Lân, người ta thường thấy “nét bút linh diệu, nhẹ nhàng của họa sĩ Tàu và Nhật Bản”, cái “mịt mùng” sương khói như trong tranh lụa Đường, Tống. Điều đó thật dễ hiểu, vì vào thời ấy, cái đặc sắc nhất của tranh lụa Việt Nam có thể được làm rõ bằng một lý giải kép về các ảnh hưởng ngoại lai: “Điều thú vị và quan trọng đáng ghi là chính nhờ người Pháp và sau khi có sự tiếp xúc với hội họa châu Âu, người Việt Nam mới biết và hiểu được nền hội họa lớn của người Trung Quốc” (Claude Mahoudot, theo tapchimythuat.vn).

Giống như Nam Sơn, Nguyễn Phan Chánh hay Lê Phổ, Nguyễn Tường Lân cũng sớm nhận ra rằng, khác hẳn với tranh sơn dầu châu Âu (mà ông đã từng thử qua), cái huyền diệu của tranh lụa Trung Hoa cổ (cũng như của tranh cổ Nhật Bản) – là ở chỗ không bao giờ lệ thuộc vào cái vỏ bề ngoài phù phiếm của sự vật, mà chỉ chú trọng thể hiện cái tinh thần bản chất bên trong nó.

Thể thức trình bày của bức tranh Làng chài cũng đặc biệt Á Đông – thể hoành, với một hình chủ thể cao hết chiều cao và chiếm tới hai phần ba chiều ngang. Tấm lưới đánh cá ấy mọc lên sừng sững như một ngọn núi, cũng là tấm lưới của ảo ảnh. Nó mở ra một sân khấu kỳ ảo, nơi một cuộc sống rất thực sẽ trở thành kỳ ảo bởi tính chất vô thường vốn có của cuộc sống. Thực và hư, có và không – chính là một trò chơi nghệ thuật ma quái đầy sức quyến rũ mà tác giả muốn trình diễn. (F.A.M., 2019b)

Trong phiên bán đấu giá ngày 26-5-2013, một nhà sưu tập người Việt mua được bức tranh này.

Nơi lưu giữ tác phẩm: sưu tập tư nhân người Việt.

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi”, 1942 – Nguyễn Tường Lân

Bức tranh này minh họa đoạn Thúc Sinh si mê Thúy Kiều nên chuộc nàng ra khỏi lầu xanh rồi chung sống với nàng. Được một thời gian, Thúc Sinh phải từ biệt Thuý Kiều về nhà gặp vợ là Họan Thư để thu xếp chuyện vợ lớn vợ nhỏ. Đoạn thơ “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” tả cảnh ngụ tình tuyệt bút ghi lại giây phút từ biệt và nỗi buồn của Kiều đối với Thúc Sinh cũng như đối với số phận mình.

Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Trong ấn bản Truyện Thúy Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo) do Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Thế giới ấn hành tháng 11-2015, có một số phụ bản tranh minh họa lấy từ Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do Hội Quảng Trị–Huế xuất bản năm 1942. Đây là tập sách có bao gồm 11 bức tranh màu in trên giấy dó của các danh họa hàng đầu Việt Nam như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… Tập sách được xuất bản để quyên góp kinh phí sửa mộ, dựng bia tưởng niệm Nguyễn Du vào năm 1942. (An Ngọc, 2015)

Tranh Trần Văn Cẩn

Cháu Thúy Nga, 1979 – Trần Văn Cẩn

Năm 1943, Trần Văn Cẩn vẽ Em Thúy, khi ông 33 tuổi. Năm 1979, Trần Văn Cẩn vẽ Cháu Thúy Nga, khi ông 69 tuổi.

Cháu Thúy Nga ngoài đời chính là con gái của Em Thúy ngoài đời. Vậy là hai bức tranh được vẽ cách nhau 36 năm, vẽ hai thế hệ khác nhau, nhưng bản tính nhân hậu của người vẽ vẫn không hề thay đổi: vẫn là một cách nhìn thương yêu đầy bao dung, một tình cảm che chở đối với trẻ thơ, thể hiện một niềm tin vào một thế giới tốt đẹp, bình yên và hạnh phúc.

Nếu Trần Văn Cẩn vẽ Em Thúy bằng chất liệu sơn dầu nhưng lại với tư duy “nhã nhặn” của một họa sĩ vẽ tranh lụa, thì ông vẽ Cháu Thúy Nga bằng sơn dầu đúng với tư duy của một họa sĩ vẽ sơn dầu, dùng thể chất mạnh mẽ của sơn dầu để tạo hình với một sự mạnh bạo ít thấy ở ông. Bảng màu – bổ túc với những lam, tím biếc, đỏ, vàng, vàng cam rung rinh – tạo nên những phức âm đầy sức quyến rũ, sức sống của trẻ thơ sẽ dậy lên từ đây, tượng trưng cho niềm vui, sự hồ hởi của người họa sĩ với tâm hồn đang trẻ lại. (F.A.M., 2019a)

Chân dung cô M., 1969 – Trần Văn Cẩn

Đây là một bức chân dung được vẽ nhanh và trực tiếp bằng sơn dầu – rất đúng với phong cách hội họa của Trần Văn Cẩn, chỉ nhìn thoáng qua người ta có thể nhận ra ngay là của ông. Người mẫu là cô M., cũng là người mẫu và là bạn lâu năm của một số họa sĩ khác.

Nơi lưu giữ tác phẩm: sưu tập tư nhân ở Việt Nam.

Chân dung Khanh, 1967 – Trần Văn Cẩn

Tranh sơn dầu, kích thước 53 x 46 cm.

Họa sĩ Trần Văn Cẩn vẽ bức Chân dung Khanh khi Khanh là một thiếu nữ Hà Nội gốc, 22 tuổi, xinh đẹp, xuất thân gia đình tốt, bản thân lại là cô giáo dạy đàn piano nên có sự nền nã, tinh tế hơn, quý phái hơn một số cô gái cùng thời. Phạm Thị Khanh vốn là bạn thân của họa sĩ Tạ Kim Dung (con gái họa sĩ Tạ Thúc Bình). Kim Dung là người mà họa sĩ Trần Văn Cẩn yêu thương chân thành nhưng không thể tới được với nhau bởi một chữ duyên không thuận.

Khanh chơi thân với Kim Dung nên thường cùng Kim Dung qua nhà ông Cẩn chơi. Họa sĩ Trần Văn Cẩn vẽ khoảng 5,7 bức, lấy hình ảnh Khanh làm mẫu hình. Trong đó bức Cô Khanh của ông vẽ năm 1974 được in trên bìa Tạp chí Mỹ thuật số Xuân Đinh Dậu năm 2017.

Với bút pháp tinh tế của một bậc thầy, một vài mảng màu buông hờ hững trên nền toan (canvas) cùng những nét phẩy điêu luyện nhẹ như thoáng mây hiện lên chân dung một thiếu nữ xinh đẹp, kiêu sa với khoé môi cong kiêu kỳ Khanh, ngồi trên chiếc ghế trúc đã đi vào huyền thoại trong các bức tranh của Trần Văn Cẩn. Chân dung Khanh hiện lên giữa sắc màu nhẹ nhàng, ấm áp với khuôn mặt lãng đãng đang suy tư rất xa xăm, rất bâng khuâng. (Hoàng Anh, 2019)

Cô Khanh ở thời điểm năm 2019, khi đã 74 tuổi, được gặp lại chính hình ảnh của mình sau hơn nửa thế kỷ, cảm thấy rưng rưng xúc động, nghẹn ngào. Hơn 50 năm đã quá một nửa đời người. Mọi thứ đã thay đổi, vạn vật đã khác, cảnh xưa, người cũ đều đã không còn… Chỉ còn lại những kỷ niệm êm đẹp, những tình cảm ấm áp không thể mờ phai trong tâm trí người còn sống. (Hoàng Anh, 2019)

Nơi lưu giữ tác phẩm: Sưu tập tư nhân.

“Đêm thu khắc lậu canh tàn”, 1942 – Trần Văn Cẩn

Bức tranh này minh họa đoạn Tú Bà dùng đến Sở Khanh lừa Thúy Kiều để ép nàng phải tự nguyện tiếp khách làng chơi. Sở Khanh rủ Kiều cùng mình đi trốn, nói mình có con ngựa chạy rất nhanh và kẻ thủ hạ giỏi. Vì thế, Kiều tin lời, cùng Sở Khanh cưỡi ngựa bỏ trốn.

Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn
Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương
Lối mòn cỏ lợt mùi sương
Lòng quê đi một bước đường một đau.

Trong ấn bản Truyện Thúy Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo) do Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Thế giới ấn hành tháng 11-2015, có một số phụ bản tranh minh họa lấy từ Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do Hội Quảng Trị–Huế xuất bản năm 1942. Đây là tập sách có bao gồm 11 bức tranh màu in trên giấy dó của các danh họa hàng đầu Việt Nam như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Lê Văn Đệ, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… Tập sách được xuất bản để quyên góp kinh phí sửa mộ, dựng bia tưởng niệm Nguyễn Du vào năm 1942. (An Ngọc, 2015)

Em Thúy, 1943 – Trần Văn Cẩn

Bức tranh sơn dầu Em Thúy khổ 60 x 45 cm, là chân dung chính diện một em bé gái 8 tuổi ngồi trên ghế mây, hai tay đặt trên đùi và mặc quần áo ở nhà đơn giản màu trắng. Gương mặt và tâm hồn ngây thơ hồn nhiên trong sáng của tuổi thơ đã được họa sĩ khắc họa thành công.

Họa sĩ Trần Văn Cẩn là một trong những đại diện hàng đầu của hội họa Việt Nam đầu thế kỷ 20, tốt nghiệp thủ khoa Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1937. Trong Thế chiến 2, ngoài thời gian đi sáng tác, họa sĩ thường sống với gia đình người họ hàng tại Phố Hàng Cót, Hà Nội. Trong gia đình, ông quý nhất người cháu gái tên là Minh Thúy, vì vậy họa sĩ vẽ tặng người cháu một bức chân dung vào năm 1943 với tựa đề đơn giản, Em Thúy.

“Em Thúy” mặc bộ quần áo màu trắng ngồi tự nhiên trên chiếc ghế mây. Bờ vai nhỏ nhắn, hai bàn tay đan nhẹ vào nhau, hai cánh tay gầy thả tự nhiên trên đùi, đôi mắt mở to, trong sáng trên khuôn mặt bầu bĩnh, mũi thẳng, miệng tươi xinh. Mọi chi tiết làm toát lên vẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng pha chút ngỡ ngàng của tuổi thơ. Khuôn mặt tươi sáng là điểm nhấn của bức tranh. Bằng lối đặc tả tuổi thơ đầy sức sống trên gương mặt cùng các nét nhấn khẳng định hình khối của đôi tay và cơ thể, người xem cảm nhận được tình cảm của tác giả đối với tuổi thơ Việt Nam. Người xem nhận thấy nhà họa sĩ như muốn nâng niu, bảo vệ sự trong sáng hồn nhiên của con trẻ, không muốn bất cứ điều gì làm vẩn đục tâm hồn thơ ngây ấy.

Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa làm tiền đề cho việc công nhận tác phẩm Em Thúy là Bảo vật Quốc gia (dsvh.gov.vn)

Đây là hiện vật nguyên gốc và độc bản và là tác phẩm được rất nhiều các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá cao với đầy đủ các giá trị như:

** Giá trị lịch sử: tác phẩm mang giá trị đánh dấu một giai đoạn lịch sử của mỹ thuật Việt Nam cận đại nửa đầu thế kỷ 20.

** Giá trị thẩm mỹ: tác phẩm mang phong cách riêng biệt họa sĩ Trần Văn Cẩn, bậc thầy của nền mỹ thuật Việt Nam cận đại. Tác phẩm là sự kế thừa phong cách tạo hình phương Tây nhưng lại được hòa quyện trong một tinh thần phương Đông rõ nét. Với chất liệu sơn dầu, tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật tả chân, cũng như tiêu biểu cho thể loại tranh chân dung Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ 20.

** Giá trị văn hóa: Đây là một trong những tác phẩm đỉnh cao của họa sĩ Trần Văn Cẩn tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thế hệ sau. Thông qua chân dung em Thúy, tác phẩm góp phần phản ánh hình ảnh xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bức tranh là một điển hình góp phần vào việc nghiên cứu các yếu tố, giá trị giao lưu văn hóa Đông–Tây trên bình diện nghệ thuật tạo hình.

Ghi chú: Những nguồn khác nhau đăng tải ảnh chụp bức tranh Em Thúy với những màu sắc rất khác nhau. Sau nhiều so sánh và cân nhắc, người tổng hợp bài này cho rằng ảnh bên thể hiện gần đúng nhất bức tranh gốc.

Sau khi quân Pháp quay lại chiếm Hà Nội, gia đình em Thúy đi tản cư mà không mang theo bức tranh. Tới khi họ quay về thì bức tranh đã bị lấy trộm và gia đình phải bỏ tiền ra chuộc lại bức tranh từ một người buôn tranh, ông này trước đó tìm thấy Em Thúy tại nhà một người thợ cạo. Cuối cùng Em Thúy được Họa sĩ Trần Văn Cẩn tặng lại cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Em Thúy được coi là một trong những tác phẩm tranh chân dung thành công nhất của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20. Theo nhà phê bình Thái Bá Vân, hình tượng cô bé trong Em Thúy phản ánh thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn vào những năm 1940 khi họa sĩ mang nhiều nỗi niềm trước công cuộc Âu hóa ở Việt Nam. Theo người phục chế bức tranh là Caroline Fry thì Em Thúy thể hiện một gương mặt giản dị nhưng đáng yêu, hiện thân của tuổi trẻ, với đôi mắt đầy tin tưởng như muốn giao tiếp với mọi người.

Trải qua hơn 60 năm, bức tranh bắt đầu rơi vào tình trạng xuống cấp. Năm 2004, bức tranh được giao cho chuyên gia phục chế người Úc Caroline tiến hành phục chế tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Caroline Fry đánh giá về hiện trạng tranh: “Mặt tranh bẩn do bụi, muội thuốc lá, phân côn trùng, toan (canvas) không bền chắc, rất dễ rách, sợi vải bị hư hỏng nhiều. Toan chùng, lớp sơn tranh nứt nhiều, có nhiều lớp bong sơn do điều kiện môi trường nóng ẩm làm biến đổi lớp toan, phá vỡ tính liên kết của mặt sơn”.

Bức tranh được phục chế qua bảy bước (Th.Hà & U.Ly, 2004):

1/ Lập hồ sơ về hiện trạng tranh, chụp ảnh;
2/ ổn định tranh: củng cố lớp vi sinh tranh;
3/ làm ẩm bằng men tự nhiên, dùng dao cạo bỏ các vết bẩn bám chắc;
4/ loại bỏ các lớp sơn bóng bằng hoá chất và các vết phục chế cũ;
5/ xử lý vết bong sơn;
6/ quét lớp sơn bảo quản, bù đắp phần sơn bị mất, sơn lại bằng mầu nước và sơn bảo quản chuyên dụng;
7/ làm khung mới; chụp ảnh và làm báo cáo cuối cùng.

Em Thúy bây giờ khoẻ khoắn lên nhiều rồi, em đã cứng cáp hơn và có thể tuyên chiến với môi trường trong khoảng 20 năm nữa trước khi tiếp tục được phục chế”, Caroline nói về bức tranh với giọng trìu mến.

Nhân vật chính trong tác phẩm là bà Nguyễn Minh Thúy sinh năm 1935, cháu ruột gọi bằng bác của họa sĩ Trần Văn Cẩn.

Nói về bức tranh, ánh mắt bà Thúy ánh lên niềm vui. Cuộc đời bà thật hạnh phúc khi có được một cái “duyên” đặc biệt với hội họa. Nhờ “bác Cẩn”, bà bước vào một thế giới đẹp như mộng và tràn đầy cảm xúc. Chính người bác tài năng đã mở ra những cảm nhận đặc biệt trong tâm hồn bà về nghệ thuật.

Ngày ấy, khi ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ tranh, bé Thúy mới lên 8, đang theo học trường nữ sinh tiểu học Ecole Brieux (nay là trường THCS Thanh Quan) ở 29 Hàng Cót. Việc hằng ngày đi học về phải ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ một đến hai tiếng đồng hồ đối với bé Thúy thật là khó khăn. Vì thế mà bác Cẩn cứ phải dỗ dành, đôi lúc lại mắng yêu: “Sao cứ chạy lăng xăng thế!” Phải mất đến mấy tháng, bác Cẩn mới hoàn thành bức họa. Khi ấy, chẳng ai trong gia đình ý thức được giá trị nghệ thuật của bức tranh. Chỉ nhớ là tại cuộc triển lãm mỹ thuật ở Hội Khai trí Tiến Đức năm đó, bác Cẩn được nhận giải Nhất với hai tác phẩm sơn dầu Em Thúy và điêu khắc Gội đầu (Thu Hằng, 2018).

Nơi lưu giữ tác phẩm: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Gội đầu – Trần Văn Cẩn

Nếu Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân được xem là một tác phẩm xuất sắc ghi nhận sự tiếp thu hội họa Pháp cũng như chất liệu sơn dầu của họa sĩ Việt mà vẫn tạo nên một tinh thần rất Việt, tác phẩm Gội đầu của Trần Văn Cẩn với chất liệu khắc gỗ lại có thể được xem là một học tập khác cũng không kém phần quan trọng đối với sự phát triển của nghệ thuật đồ họa Việt Nam. Đó chính là sự ảnh hưởng của nghệ thuật khắc gỗ Nhật Bản.

Tác phẩm vẽ ra một hình ảnh quen thuộc về một người thiếu phụ ngực trần đang khom lưng xõa tóc chải đầu. Với gam màu nhuần nhị trắng và lục, những nét khắc tỉ mỉ thể hiện ra trên mái tóc đổ tràn, cách tạo hình ngón tay cô gái và hai bông hoa hồng lấp ló phía sau, ta như cảm nhận được bức tranh này đã thoát thoai hoàn toàn ra khỏi ảnh hưởng của lối khắc gỗ dân gian Đông Hồ. Ở đó hiện lên một tinh thần mới học được từ các tranh khắc gỗ màu của Nhật Bản nhưng lại khơi gợi lên sự giản dị tinh tế của tâm hồn người Việt. (Trang Thanh Hiền, 2021)

Khâu áo cho con, 1955 – Trần Văn Cẩn

Đây là một bức ký họa màu nước.

Thành cổ Đồng Hới, 1969 – Trần Văn Cẩn

Đây là một bức ký họa màu nước.

Thiếu nữ đọc sách – Trần Văn Cẩn

Tình yêu đầu tiên, 1973 – Trần Văn Cẩn

Tranh chất liệu bột màu, kích thước 45 x 50 cm.

Bức Tình yêu đầu tiên được trả giá cao kỷ lục 41.000 đô la Mỹ (gần 1 tỉ đồng theo thời giá) tại Nhà đấu giá Chọn diễn ra tối 30-7-2017, tại Hà Nội.

Ghi chú: một nguồn khác ghi tựa đề của bức tranh này là Cảm hứng tình yêu, hai ảnh giống nhau như một, và cho biết cũng được bán đấu giá tối 30-7-2017 tại Hà Nội. Như vậy, hai bức tranh này là một chứ không phải hai phiên bản.

Sơ lược về các tác giả

Bộ Tứ “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”

Vào thập kỷ 1960s, xuất hiện trong công chúng thuật ngữ nói về hai Bộ Tứ của hội họa trên đất Việt: “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn “ và “nhất Sáng, nhì Liên, tam Nghiêm, tứ Phái”. Thực tế, đó là do quần chúng tự phong “tước hàm, tước vị” cho các ông. Bùi Xuân Phái không tỏ ra thú vị hay tán thưởng lắm về sự xếp hạng và đặt tên như thế. Có lần ông còn nói vui: “Người ta nói thế cho có vần điệu chứ thực ra là mượn ý của câu dân gian liệt kê thứ bậc, chất lượng món cờ tây: “nhất bạch, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm”. (gallery.passion4art.com)

Về tuổi tác thì xếp như sau: Nguyễn Tường Lân (1906-1946), Nguyễn Gia Trí (1908-1993), Tô Ngọc Vân (1908-1954), Trần Văn Cẩn (1910-1994). Số lượng tác phẩm hiện hữu thì xếp như sau: Trí, Cẩn, Lân, Vân (không xét ký họa). Nhưng trong giới mỹ thuật lâu nay vẫn mặc định là nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn. Sinh thời, khi một tạp chí nước ngoài hỏi nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân lý giải về thứ tự này, ông trả lời ban đầu chắc xếp theo “thuận miệng” thôi, chứ không có ý phân cao thấp, trước sau, vì họ đồng đẳng cấp và có những đóng góp riêng.

Đóng góp lớn lao nhất của Bộ Tứ này là khả năng vận dụng quan niệm vẽ tranh kiểu Tây phương vào tâm hồn Việt Nam, vào tư tưởng, kỹ thuật, chất liệu Đông phương một cách nhuần nhị, tạo ra được những tác phẩm tiêu biểu, độc sáng. Họ cũng như Nguyễn Phan Chánh, Lương Xuân Nhị… và Bộ Tứ trời Âu “Phổ – Thứ – Lựu – Đàm”, biết cất tiếng ca tự tôn về bản sắc cá nhân và dân tộc trước ngưỡng cửa của “thế giới đại đồng”. Như chính lời Tô Ngọc Vân: “… ngay từ lúc đi học đã mơ xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của hội họa Pháp sang ta và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên thế giới”. (Văn Bảy, 2019b)

Nguyễn Gia Trí

Nguyễn Gia Trí (1908-1993) là họa sĩ, nhà đồ họa, biếm họa, được mệnh danh là “cha đẻ những bức tranh sơn mài tân thời của Việt Nam” và được xem là là đại thụ lớn nhất của nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam.

Nguyễn Gia Trí quê ở Xã Trường Yên, Huyện Chương Mỹ, Hà Đông (từ năm 2008 thuộc về Hà Nội mở rộng). Lúc đầu ông theo học Trường Y, sau mới vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 4. Nhưng chỉ đến năm thứ hai, ông bỏ học về nhà mở xưởng vẽ riêng. Khi trường mở khoa sơn mài, ông mới quay lại học và là sinh viên khóa 7 (1931-1936) của trường. Có người đưa ra lý do của việc Nguyễn Gia Trí bỏ học, ấy là do Hiệu trưởng của trường – họa sĩ Victor Tardieu – tuy phục tài nhưng không ưa cá tính của người họa sĩ trẻ (nhưng tại sao nhận lại Nguyễn Gia Trí vào khóa 7?). Những lần có khách tới thăm trường, ông này thường cố tình đứng che tranh của Nguyễn Gia Trí.

Bản thân Nguyễn Gia Trí sau này tiết lộ: “Học đến năm thứ hai, tôi không chịu được nhà trường nên bỏ. Sau vì có khoa sơn mài nên học lại. Giờ académique [vẽ hàn lâm] buổi sáng là một cực hình. Chỉ mong đến chiều để làm sơn mài”. Như vậy, bên cạnh lý do “không chịu được nhà trường” thì lý do cơ bản dẫn tới việc Nguyễn Gia Trí không tha thiết với việc học là vì ông thích làm tranh sơn mài hơn. Chính thiên hướng độc đáo này giúp Nguyễn Gia Trí trở thành người đi đầu trong việc mở ra một khuynh hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam mà sau này ta gọi là nghệ thuật sơn mài.

Mặc dù nắm vững kỹ thuật sơn dầu Châu Âu, Nguyễn Gia Trí lại hướng vào chất liệu dân tộc sơn ta (xem chi tiết ở phần dưới). Khoảng cách bỏ dở không học giữa khóa 4-7 quyết định vận mệnh sự nghiệp của Nguyễn Gia Trí. Ông đóng cửa tuyệt giao bạn bè đến nỗi phóng viên các báo Ngày nay, Indochine, Volonté Indochine phải lên tiếng: “Chúng ta đến thăm Trí đi, anh ta vẽ bằng than hàng năm trời rồi.”

Họa sĩ Nguyễn Gia Trí là người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật, mà đình đám nhất là triển lãm của ông năm 1939-1940, cho thấy nghệ thuật sơn mài đã đạt đến một tầm vóc mới. Gia Trí để lại một vẻ đẹp sơn mài lộng lẫy chất tôn giáo, cổ điển, bởi ông là người duy nhất khám phá ra linh hồn của sơn mài truyền thống, khiến nó không còn tầm thường nữa mà đài các, quý phái. Vẻ đẹp thiếu nữ trong tranh ông được diễn tả tài hoa là hiện thân của khát vọng tự do, mộng mơ. Dường như tất cả tác phẩm của ông được ngầm coi là bảo vật và bị cấm đem khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Trong các tuyệt kỹ của Nguyễn Gia Trí, nhiều họa sĩ sơn mài bái phục tài “luyện vỏ trứng”. Dưới tay ông, vỏ trứng từ một vật cứng trở thành mềm mại và tạo ra đủ sắc thái của màu và ánh sáng trắng. Lúc như một thứ men rạn cổ kính, lúc loé lên trên nền đen như được soi bằng những ánh đuốc đêm hoa đăng, lúc đông đặc như cẩm thạch, lúc kết tinh như kim cương, lúc mỏng mờ như trận mưa các giọt sữa, lúc rờn rợn bóng tối hư ảo trên tường rêu đêm Bồ Tùng Linh… Cho đến nay chưa ai học được bí quyết “mài bạt” vỏ trứng của ông. Đó cũng là một lý do người ta khẳng định không ai có thể làm giả một tác phẩm sơn mài Nguyễn Gia Trí. (Hoàng Hưng, 2017)

Đặc biệt, tranh của Nguyễn Gia Trí có độ xa – gần, có chiều sâu thăm thẳm, hun hút của không gian. Đây là điều cực kỳ khó thể hiện trên tranh sơn mài. Hãy hình dung, sau khi màu đã được cố định ở các hình họa, họa sĩ phải phủ lên mặt tranh một lớp sơn rồi đem ủ trong hai tuần. Đó là hai tuần chờ đợi hồi hộp vì không thể biết, hình hài bức tranh ra sao dưới lớp sơn phủ tối bưng. Chỉ dưới bàn tay mài của người họa sĩ, những hình ảnh từ trong bóng tối mới dần hiện lên mà chưa chắc sẽ đúng như mong đợi. Nguyễn Gia Trí thuộc số ít các họa sĩ có bàn tay “ma thuật”. Ông phủ rất nhiều lớp và mài rất nhiều lần, không biết mệt mỏi. Nhờ thế, từng cái lá tre, phiến dọc mùng trong tranh sơn mài của ông hiện lên với nhiều chiều, có mặt sấp, có mặt ngửa, mặt nghiêng, mặt ngả, như đang lay động trước ngọn gió, tinh tế và sống động như thật. Con người trong tranh của ông, đặc biệt là người phụ nữ, không “lộ” hẳn ra mà lẫn vào cỏ cây hoa lá. Nguyễn Gia Trí cũng chưa từng vẽ phụ nữ nằm hay thiu thiu ngủ. Bảng màu của ông đôn nhã, bình ổn. Gia Trí không thích chất vàng son lộ liễu. Khi làm tranh, vỏ trứng luôn được ông gắn chìm dưới lớp sơn cánh gián, chỉ thấp thoáng ẩn hiện, tạo hiệu ứng sâu hút. Đó là những điểm hoàn toàn khác biệt so với Alix Aymé, người cũng có nhiều tìm tòi với sơn mài, nhưng theo hướng khác. (Nguyễn Hải Yến, 2016)

Nguyễn Gia Trí học sơn mài với thầy cô người Pháp, sớm định hình phong cách riêng từ giữa thập niên 1930. Ngoài khía cạnh nghệ thuật độc đáo, tác phẩm của ông gần như lập tức gây sức hút lớn với thị trường. Từ cuộc triển lãm chung năm 1939 do Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tổ chức, tranh của ông đã có người sưu tập. Ông bán tranh ra nước ngoài ngay từ đầu thập niên 1940, liên tục cho đến khi di cư vào miền Nam năm 1954. Những năm 1940s, Nguyễn Gia Trí là họa sĩ thành công nhất ở Việt Nam. Tác phẩm của ông được tính giá theo tấc và hầu như chỉ dân Tây thượng lưu mới có khả năng mua. Họ đặt tiền mua tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo.

Tại Sài Gòn trong giai đoạn 1954-1975, tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí tiếp tục chu du đến nhiều nước, sang tận Nam Mỹ, Nam Phi… bằng con đường sưu tập. Nhưng cũng còn nhiều bức tranh quan trọng còn lại trong nước, trong đó có kiệt tác Vườn Xuân Trung Nam Bắc là do Nguyễn Gia Trí cố ý giữ lại, hoặc làm chậm quá người đặt hàng không kịp lấy. Nếu không thì chúng đã “định cư” tại nước ngoài.

Nguyễn Gia Trí là họa sĩ sớm vẽ theo đơn đặt hàng, nhưng không bị cuốn theo thị trường, mà biết từ chối và cân nhắc trước khi nhận lời. Nếu cuốn theo thị trường thì: “Tôi có thể thành triệu phú, nhưng tôi quý trọng tự do hơn tiền bạc”, lời của Nguyễn Gia Trí. Thái độ này có thể thành tấm gương cho nhiều họa sĩ trẻ, bởi nhìn lại, nhiều người vốn có tài nhưng đã bị thị trường làm vong thân, mất bản sắc. (Văn Bảy, 2019b)

Chuyện kể về Nguyễn Gia Trí có nhiều. Lượt qua vài chuyện dưới đây (Lê Đại Chúc, 2021).

Bố tôi [tức bố của Lê Đại Chúc] – thi sĩ Lê Đại Thanh – là bạn học ngồi cùng bàn với bác Nguyễn Gia Trí hồi còn học tiểu học và trung học thời Pháp thuộc. Bố tôi kể: “Ngay hồi đó, tới giờ vẽ bố chỉ vẽ được một con mèo, trong khi đó ông ấy đã vẽ minh họa được truyện Con yêu râu xanh. Tranh được treo ở trường. Một thời gian sau có một phái đoàn Nhật Bản tham quan trường, thấy họ thích quá, nhà trường tặng họ mang về Nhật Bản”.

Một lần thi sĩ Xuân Diệu nói với bố tôi: “Trong khi Tô Ngọc Vân còn đang cưỡi xe đạp trên đường thì Nguyễn Gia Trí đã cưỡi máy bay trên trời rồi!”

Một nhà thơ, đạo diễn kịch (tôi không còn nhớ rõ tên) có lần nói với tôi: “Bác lúc đầu cũng định làm họa sĩ đấy chứ, nhưng chỉ nhìn thấy một minh họa trên báo của Nguyễn Gia Trí bác liền nhận ra ngay cả đời bác cũng không thể vẽ được như thế, thế là bác bỏ mộng làm họa sĩ, chuyển sang làm thơ, làm kịch!”

Nói thế để thấy ngay lúc còn trẻ bác Trí đã được những người “có mắt xanh” tâm phục khẩu phục. Hữu xạ tự nhiên hương!

Khoảng 1953–1954 bác Trí vào Nam. Tuy sống ở Sài Gòn nhưng bác coi thường chính quyền lúc đó. Vì vậy khi chính quyền của Ngô Đình Diệm mời bác, không nhớ rõ là mời làm thầy giáo dạy sơn mài hay làm hiệu trưởng Trường Mỹ thuật – bác từ chối. Họ bèn đề nghị cho họ cử sinh viên đã học xong khoa sơn mài tới xưởng của bác học và làm tiếp, đến khi nào bác thấy được họ mới cấp bằng tốt nghiệp, bác cũng từ chối. Bác nói với tôi: “Làm sao đám trẻ nó hiểu được mình mà dạy!”

Tôi nói với bác: “Nhưng mà như thế thì quá thiệt thòi cho tranh sơn mài của nước nhà. Tinh hoa sơn mài Việt Nam mất đi những gì cao quý, tế nhị nhất !” Bác Trí nói: “Bác cũng đã nghĩ tới chuyện đó rồi !”

Chuyện đó là như thế này. Thời đó (không nhớ năm nào) chính quyền Sài Gòn quyết định xây dựng Thư viện Quốc gia. Để trang trí thư viện, họ đặt bác Trí 3 bức tranh sơn mài khổ lớn. Bác Trí đem hết tâm huyết, tình cảm và tay nghề bậc thầy gửi gắm vào 3 tuyệt phẩm này. Có lần tôi nói với bác: “Cháu đã xem rất kỹ 3 bức tranh này, cháu thấy 3 bức hoàn toàn khác nhau, từ đề tài, phong cách lẫn kỹ thuật mà bức nào cũng tuyệt diệu, đặc biệt là bức trừu tượng, cháu còn mê hơn cả tranh của Pollock. Nhưng cháu thấy họ treo cao quá, xem cứ phải ngẩng đầu lên”.

Bác nói: “Cháu nói phải đấy, bác không dạy học trò trực tiếp nhưng bác vẽ 3 bức tranh này coi như là 3 quyển tự vị về sơn mài, ai muốn học sơn mài thì tới đấy mà học. Vì vậy đáng lẽ họ phải để 3 bức tranh trong 3 tủ kính để người học dễ coi !”

Để đề phòng, khi ký hợp đồng vẽ tranh bác Trí yêu cầu có khoản, đại ý: Ba bức tranh này được vẽ chỉ để trang trí cho Thư viện Quốc gia, không dùng cho bất kỳ mục đích nào khác. Quả đúng như bác phòng xa, sau đó có một triển lãm quốc tế tổ chức tại Tokyo – Nhật Bản, chính quyền Sài Gòn dự định mang 3 bức tranh này đi tham dự, bác phải nhờ luật sư đưa ra hợp đồng đã ký để không cho mang đi.

Bác nói với tôi: “Nó mang đi triển lãm được giá cao là chúng nó bán ngay, còn lạ gì chúng nó!”

Thời ấy, vẽ sơn mài bác Trí phải dùng sơn Campuchia (sơn Nam Vang), vàng bạc của Nhật Bản, hàng về cảng Sài Gòn có khi giao chậm trễ, có khi thất lạc. Bác Trí phàn nàn chuyện này với mấy người bạn, các ông này lại quen với mấy ông làm dưới trướng Ngô Đình Diệm, thế là mấy ông này thưa chuyện với ông Diệm. Ông Diệm cho tùy tùng gửi một công văn cho Giám đốc Cảng Sài Gòn yêu cầu hàng của họa sĩ Nguyễn Gia Trí phải được giao sớm nhất, đầy đủ nhất.

Có một lần, bác Trí tổ chức triển lãm tranh ngay tại nhà bác ở, vì sàn nhà xấu nên bác mượn một số chiếu cói và thảm cũ của bạn bè để trải sàn.

Về sau tôi hỏi bác: “Sao bác không triển lãm ở nhà triển lãm mà lại ở nhà?”

Bác bảo: “Nếu triển lãm tại bảo tàng hay nhà triển lãm thì thế nào thằng Bộ trưởng Bộ Văn hóa cũng đòi cắt băng khai mạc, mà nó thì hiểu biết gì về hội họa mà đòi cắt băng!”

Biết bác Trí là thiên tài sơn mài và biết bác mở triển lãm tại nhà, đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân gọi điện thoại tới báo ngày giờ Lệ Xuân và Ngô Đình Nhu tới xem. Tới hẹn, vợ chồng Lệ Xuân tới. Thấy vài người đang xem tranh, Lệ Xuân nói: “Sao lại vẫn có người xem là thế nào, tôi đã báo trước là không để một ai ở đây cơ mà?”

“Họ là bạn tôi, vả lại ông Đại sứ Mỹ cũng vừa ở đây về xong!” – bác Trí trả lời.

Lệ Xuân lại nói: “Sao không để vài chiếc ghế ở đây mà ngồi?”

Bác trả lời: “Xem tranh không ai ngồi cả!”

Thế là Lệ Xuân im tới lúc về.

Thời đó các phái đoàn ngoại giao của Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu mỗi lần đi công du nước ngoài đều phải có tranh của bác Trí để làm quà cho các nguyên thủ quốc gia.

Bác Trí gái kể: “Có lần họ tới mua tranh nhưng lại muốn mua chịu, trả tiền sau. Tôi nói với họ: Tôi nghe nói Bộ Ngoại giao các anh có cả quỹ đen cơ mà. Về lấy quỹ đen ra mà mua, không bán chịu!” Thế là mấy ngày sau họ cũng mang đủ tiền đến mua.

Bác Trí có một thời gian ngắn vẽ sơn dầu, không hiểu sao bác lại phải sang tận Hong Kong vẽ phong cảnh. Bác thuê một người bản xứ xách đồ, vẽ vài bức thấy chưa hay, bác cho người xách đồ cả mấy bức tranh rồi trở về Việt Nam.

Có lần tôi hỏi bác: “Sao bác không vẽ sơn dầu mà ngay từ đầu bác chỉ vẽ sơn mài?”

“Vẽ sơn dầu tôi học ai? Sơn mài còn có truyền thống mà học chứ! Sơn dầu lại có quá nhiều màu. Mở một hộp sơn dầu ra hoa cả mắt, không biết bắt đầu bằng màu nào, thêm nữa khí hậu ngoài Bắc ẩm thấp, sơn dầu dễ bị mốc” – bác Trí trả lời.

Bác Trí là người nghiêm túc, đạo đức trong cuộc sống. Đôi lúc nghiêm túc đến mức cực đoan. Có một ông lần đầu đặt bác vẽ một bức tranh có chủ đề về Chúa Jesus. Một thời gian sau, ông ấy lại tới đặt bác vẽ một bức tranh có chủ đề vể Đức Phật.

Bác Trí bảo: “Ô, cái ông này lạ nhỉ! Thờ ai thì thờ một người thôi chứ, lần trước ông đặt vẽ tranh Chúa Jesus tôi tưởng ông là người Thiên chúa giáo nên mới vẽ, bây giờ ông lại đặt vẽ Đức Phật, ông là cái loại đạo gì vậy? Tôi không nhận vẽ đâu!”

Còn có một chuyện khác về họa sĩ Nguyễn Gia Trí (Phạm Công Luận, 2020):

Trong bài phỏng vấn tạp chí Bách Khoa số 129, ông Nguyễn Văn Rô, giảng viên Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, kể họa sĩ Nguyễn Gia Trí được chính phủ đặt một bức tranh sơn mài trị giá 2 triệu. [Người tổng hợp bài này còn nhớ: tỉ giá 1 USD khoảng 1968-1970 là 120 đồng và lương tháng của chuẩn úy là 16.000 đồng .] Đây là dịp người họa sĩ yêu nghề và tự đòi hỏi chất lượng tranh của mình ở mức cao như họa sĩ Nguyễn Gia Trí tự hoàn thiện mình. Ông “xoa tay, hớn hở” nói với ông Rô: “Đời nào mình có hai triệu bạc để mà làm một công trình thí nghiệm cho đến nơi đến chốn!” Thế là ông để suốt tới hai năm mới làm xong bức tranh. Ông Rô cho là nếu gặp người khác thì có thể giao hàng trong vài tháng và bỏ túi ít nhất nửa triệu (có lẽ sau khi trừ các chi phí về nguyên liệu và nhân công).

Nhựa dùng trong tranh sơn mài

Loại nhựa để làm tranh sơn mài được trích từ cây sơn nói chung. Cây sơn mọc ở Bắc Việt Nam và ở Đài Loan thuộc loài có tên khoa học là Rhus succedanea. Cây sơn mọc ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản thuộc loài Rhus vernicifera, nên có tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”: một số nguồn khi viết về tranh sơn mài Việt Nam cho rằng nhựa sơn được trích từ loài này. Còn cây sơn mọc ở Thái Lan và Miến Điện thuộc loài Melanorrhoea usitata. Nhựa chiết từ cây sơn ta là laccol, nhựa cây sơn Nhật là urushiol, còn nhựa chiết từ cây sơn Thái là thitsiol. Urushiol rất bóng và khô nhanh, được người Nhật dùng để phủ các đồ gỗ, sứ và kim loại. Urushiol phủ trên các đồ cổ của Nhật có thể trường tồn 700 năm mà không thay đổi tính chất.

Theo Saeko Ando – họa sĩ Nhật bản, chuyên gia về sơn mài Việt Nam, người mở lớp dạy kỹ thuật vẽ sơn mài truyền thống của Việt Nam tại Hà Nội từ nhiều năm nay – Nhật Bản có nhập nguyên liệu sơn ta (laccol) từ Việt Nam, nhưng ở Nhật nguyên liệu này bị coi là có chất lượng thấp vì khô rất chậm và kém rực rỡ.

Tuy nhiên, Saeko Ando cũng nói rằng nhựa laccol chỉ lý tưởng trong điều kiện độ ẩm cao như ở Việt Nam, trong khi nhựa urushiol của Nhật khô quá nhanh đối với kỹ thuật sơn mài Việt Nam. Sở dĩ nhựa laccol không rực rỡ như nhựa urushiol của Nhật vì hàm lượng keo (gum) trong nhựa laccol cao. Nhưng tính chất này lại khiến màng nhựa laccol mềm hơn, nhờ đó họa sĩ hay nghệ nhân dễ đánh giấy ráp (mài) mặt sơn tới nhẵn bóng, hoặc làm lộ ra các lớp sơn bên dưới trong kỹ thuật vẽ tranh sơn mài. Trong khi đó, màng nhựa urushiol của Nhật khi khô thì cứng tới mức được người Nhật ngày xưa dùng để bọc đầu mũi tên, phủ lên áo giáp, v.v.. Ngoài ra, sau đó gum trong laccol vẫn tiếp tục “khô” (cũng như sơn dầu, sơn ta, urushiol, và thitsiol khô do bị oxy hóa, tạo ra các liên kết ngang), khiến mặt sơn mài càng để lâu càng trở nên trong sáng, cứng và rực rỡ hơn. (Nguyễn Đình Đăng, 2013)

Ba bức tranh ở Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp HCM

Ở Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp HCM, bức Hoài niệm xứ Bắc được treo trong phòng đọc lớn, bức Vườn xuân treo ở phòng đọc doanh nhân, còn bức Trừu tượng treo ở phòng hội nghị. Khi sáng tác ba bức sơn mài này, Nguyễn Gia Trí có nguyện vọng lưu lại kỹ thuật sơn mài để con cháu thời sau tìm hiểu.

Ba tác phẩm trên tóm gọn sự phát triển sơn mài Việt Nam ở thế kỷ 20, từ thời kỳ vẽ sinh hoạt dân gian kiểu Henri Oger (bức Hoài niệm xứ Bắc), đến sơn mài hiện đại những năm 1960-1970 và phong cách trừu tượng.

Về lai lịch ba bức tranh này, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II hiện có lưu lại văn bản của chính quyền Việt Nam Cộng hòa mua vào năm 1967 để trang hoàng Thư viện Quốc gia (tên gọi trước năm 1975 của Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp HCM hiện nay).

Giá mua ba bức tranh được ghi rõ: Hoài niệm xứ Bắc (3,1m x 2,1m, 5 tấm ghép lại) là 975.000 đồng, Vườn xuân (2,4 m x 2,8m, 4 tấm) là 1.050.000 đồng, Trừu tượng (122cmx244cm) là 450.000 đồng.

Họa sĩ Nguyễn Lâm nói rõ thêm: “Hồi đó tranh cụ Trí thường mỗi bức có giá 1 triệu bạc. Trúng độc đắc vé số kiến thiết quốc gia cũng là 1 triệu bạc, đủ mua được một cái villa (biệt thự)”. Bút phê trên văn bản mua tranh Nguyễn Gia Trí cho rằng “nếu so với bức tranh khác ở dinh Độc Lập thì (giá) này của danh họa Nguyễn Gia Trí là không đắt”.

Tổng số tiền mua tranh Nguyễn Gia Trí là 2.250.000 đồng, được trích ra từ số tiền 200 triệu bạc cấp xây dựng Thư viện Quốc gia, tức tương ứng khoảng 1% tổng kinh phí xây dựng.

Điều thú vị là tỉ lệ này cũng gần với quy định của các nước tiên tiến hiện nay là các công trình kiến trúc lớn bắt buộc phải có tác phẩm nghệ thuật trang trí với kinh phí chiếm 1-2% tổng kinh phí xây dựng. (Quang Thi, 2014)

Tô Ngọc Vân

Tô Ngọc Vân (1906/1908-1954) được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Thông qua kỹ thuật, ông cố gắng diễn tả được vẻ đẹp duyên dáng của người Việt Nam đương thời mà tiêu biểu là chân dung thiếu nữ.

Tô Ngọc Vân sinh tại Làng Xuân Cầu, Xã Nghĩa Trụ, Huyện Văn Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội.

Thuở bé ông là con nhà nghèo (tốt cho lý lịch), quá tuổi mới được đến trường học chữ. Đang học trung học năm thứ 3, ông bỏ học để đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926, ông đỗ kỳ thi tuyển vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tốt nghiệp khóa 2 năm 1931. Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Bangkok, Huế… Ông cũng viết về mỹ thuật, phê bình nghệ thuật trên báo chí. Ông hợp tác với các báo Phong HóaNgày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị.

Từ 1935 đến 1939 Tô Ngọc Vân đi dạy ở Trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa vẽ linh tinh vào vở của mình. Sau Cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc. Thời gian này ông vẽ rất nhiều ký họa.

Hy sinh ở độ tuổi trung niên (bị trúng bom của máy bay Pháp gần sát chiến trường Điện Biên Phủ), khi sức làm việc và sáng tạo đang dài rộng, nhưng Tô Ngọc Vân vẫn có những tác phẩm làm nên cột mốc lớn. Tác phẩm Bức tranh Hai thiếu nữ và em bé (1944) được công nhận là Bảo vật Quốc gia của tác giả vốn đã tham gia kháng chiến chống Pháp, làm hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam và được phong danh hiệu Liệt sĩ.

Trong vai trò thầy giáo mỹ thuật, Tô Ngọc Vân dạy học nhiều nơi, để lại dấu ấn chuyên môn trên nhiều thế hệ học trò. Riêng khóa kháng chiến (1950-1954) tại Việt Bắc, Tô Ngọc Vân có nhiều học trò tên tuổi như Ngô Minh Cầu, Đặng Đức, Đào Đức, Trần Lưu Hậu, Lê Huy Hòa, Nguyễn Trọng Kiệm, Lê Lam, Ngô Mạnh Lân, Ngọc Linh, Mai Long, Lưu Công Nhân… Khóa này kịp hình thành một Bộ Tứ là Hòa – Nhân – Hậu – Kiệm, tức Lê Huy Hòa, Lưu Công Nhân, Trần Lưu Hậu và Nguyễn Trọng Kiệm.

Chính những ảnh hưởng đã tạo ra trong quá trình dạy học và tinh thần “nhất tự vi sư”, dấu ấn của Tô Ngọc Vân luôn được ghi nhớ, tôn vinh. Họa sĩ Lê Thiết Cương nhận định: “Là một họa sĩ nổi tiếng, nhưng tác phẩm lớn nhất của thầy Tô Ngọc Vân chính là những học trò – những thế hệ họa sĩ tên tuổi hàng đầu của Việt Nam”.

Nhạc sĩ Phạm Duy từng theo học Trường Cao đẳng Mỹ Thuật, cùng khóa với Võ Lăng và Bùi Xuân Phái. Ông viết về Tô Ngọc Vân như sau (Hồi ký Phạm Duy):

“ Khi học cách dùng mầu thì thầy dạy của chúng tôi là Tô Ngọc Vân. Trong mấy ông thầy, tôi phục thầy Vân nhất. Đứng gần thầy, tôi cứ tưởng tượng thầy là nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Đẹp của Khái Hưng dù vóc dáng của thầy thấp lùn, đôi mắt của thầy lồi ra và thầy rất hà tiện trong lời ăn tiếng nói.

“ Thầy Tô Ngọc Vân là người đã từng làm cho tôi kính phục khi tôi được coi tranh triển lãm của thầy. Là người đầu tiên dùng hội họa mới để xưng tụng người đàn bà Việt Nam với những bức tranh mỹ nữ có hình, có dáng, có khối hẳn hòi chứ không phải là mỹ nữ được vẽ phóng trong công thức (stylisé) như tranh cổ truyền. Chỉ cần thấy bố cục (composition) của tranh Tô Ngọc Vân cũng đủ làm xiêu lòng người coi tranh. Thầy dùng mầu sắc hết sức táo bạo, so với thời đó. Nhưng thầy đã dạy cho tôi thấy cái quan trọng trong tranh sơn dầu không phải chỉ ở mầu sắc. Phải làm sao cho thấy được ánh sáng nổi bật trên nền ngũ sắc đó. Phải rồi, coi tranh Renoir hay tranh Gauguin, tôi chỉ nhìn thấy nắng. Không thấy gì hơn là nắng! Tuy nhiên nắng ở trời Âu mà tôi thấy trong tranh của các họa sư đó chỉ là nắng phản chiếu (lumière réflective), còn nắng trong tranh sơn dầu Việt Nam (như tranh của Tô Ngọc Vân chẳng hạn) là nắng trực tiếp (lumière directe).”

Nguyễn Tường Lân

Nguyễn Tường Lân (1906-1946) được xem là một trong số ít họa sĩ đương thời có khả năng đưa các màu nguyên chất vào một sự hài hòa mang tính hư cấu, tượng trưng, giản dị và nhã nhặn, kể cả đối với tranh lụa. Ngay từ thập niên 1940, bằng nhịp điệu phóng khoáng của những vệt bút lớn chạy trên sơ đồ trang trí, Nguyễn Tường Lân đã sớm phá cách để đi đến phong cách nghệ thuật trừu tượng hóa (Hai thiếu nữ bên cửa sổ, Salon Unique, 1943). (Wikipedia_Nguyễn Tường Lân)

Sau khi tốt nghiệp khóa 4 (1928-1933) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Tường Lân nhanh chóng mở xưởng vẽ tại Hà Nội, nổi tiếng với đầy đủ tiện nghi và những người mẫu đẹp. Đương thời, nhiều họa sĩ tìm đến xưởng của ông để được mục kích mô hình chuyên nghiệp này, cũng như tìm dịp “vẽ ké các siêu mẫu” sẵn có. Ông thuần thục hầu hết các vật liệu từ lụa, sơn mài, khắc gỗ, bột màu, chì sáp, chì than… cho đến sơn dầu. Ông cũng sáng tác rất nhiều, từng có triển lãm cá nhân thành công tại Bắc Kinh vào tháng 7-1945, phần lớn tác phẩm được bán.

Có lẽ nhờ thái độ chuyên nghiệp, sẵn sàng chia sẻ cả về chuyên môn và phương tiện làm việc mà Nguyễn Tường Lân được nhiều đồng nghiệp yêu mến. Ông cũng được giới nghiên cứu và báo giới liên tục ca ngợi. Điểm đặc biệt nữa, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, dù những tác phẩm còn lại là rất ít, nhưng có giá trị.

Vì chiến tranh, không còn nhiều thông tin và tư liệu về Nguyễn Tường Lân. Mặc dù ông sáng tác được nhiều tác phẩm nhưng số còn giữ lại được chỉ đếm trên đầu ngón tay, muốn xem đã khó chứ đừng nói muốn mua. Có lẽ cũng chính vì vậy mà hình ảnh của ông trong Bộ Tứ khá mờ nhạt, và nhiều người tự hỏi vì sao ông lại được xếp vào Bộ Tứ huyền thoại này.

Tuy thế, Nguyễn Tường Lân vẫn là một họa sĩ kỳ tài của Việt Nam và số ít tranh còn lại vẫn thể hiện được cốt cách bậc thầy.

Trần Văn Cẩn

Là người thứ tư trong danh sách Tứ Kiệt của nền hội họa Việt Nam (tứ Cẩn), Trần Văn Cẩn để lại cho nền mỹ thuật nước nhà những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị cao về nghệ thuật và giàu tính nhân văn. Ông cũng là một trong số ít các họa sĩ có sự thể nghiệm với nhiều chất liệu, thể loại khác nhau và chất liệu, thể loại nào cũng có tác phẩm thành công.

Họa sĩ Trần Văn Cẩn là thủ khoa khóa 7 (1931-1936) của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tốt nghiệp với bức sơn mài Tiễn anh khóa đi thi Hương, hay còn được gọi là Lều chõng. Năm 1934, tác phẩm sơn mài Mẹ tôi được tham dự triển lãm ở Paris. Từ 1935 đến 1945, ông liên tục gây ấn tượng tại các triển lãm chung, đoạt các giải thứ hạng cao, nên được nhiều người chú ý. Họa sĩ Tô Ngọc Vân hy sinh nă, 1954, ông đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam suốt 15 năm sau.

Trần Vân Cẩn rất có duyên với những việc có tính lần đầu, từ thể nghiệm sơn mài đến sử dụng sơn dầu, cách tân lụa và tranh khắc gỗ. Điểm chung của những kiệt tác như Em Thúy (sơn dầu), Chợ Tết (lụa), Gội đầu (khắc gỗ), Hai cô gái trước bình phong (lụa)… đều ở khả năng bắc nhịp cầu giữa Đông và Tây, ở vấn đề cách tân vật liệu và chất liệu nghệ thuật.

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Quang Việt nhận định: Trần Văn Cẩn là một trong những họa sĩ đa năng đầu tiên của Việt Nam. Cho dù vẽ lụa, sơn dầu hay làm tranh khắc gỗ, tranh sơn mài thì ông cũng đều sớm có những sáng tác đỉnh cao không thể chối cãi.

Từ khía cạnh thị trường, ngoài các kiệt tác giờ đã “có nơi có chỗ” ổn định, khó có thể giao dịch, nhìn chung giá tác phẩm của Trần Văn Cẩn vẫn còn khá thấp so với 3 họa sĩ còn lại trong Bộ Tứ này. Tuy nhiên, tình hình này sẽ nhanh chóng thay đổi, vì các nhà sưu tập lớn được tiếp cận và sở hữu cùng lúc nhiều tác phẩm của ông Cẩn, việc tái định giá và đẩy giá chỉ là một sớm một chiều.

Trước khi nhắm mắt, họa sĩ Trần Văn Cẩn kịp để lại di chúc tặng toàn bộ gia tài nghệ thuật của mình cho người bạn đời duy nhất của ông: “Xin cô Trần Thị Hồng nhận lấy gia tài hội họa của tôi như một chút quà mọn”. Gia tài hội họa của ông là hơn 1000 bức tranh do chính tay ông vẽ với nhiều thể loại tranh khác nhau. Đó là tài sản vô giá của cả cuộc đời nhà họa sĩ. Ông tặng lại cho bà xem như “một chút quà mọn” thay cho lời cám ơn bà. Cám ơn những hạnh phúc muộn màng bà đã mang đến cho ông trong cuộc đời, những hạnh phúc hiếm hoi mà ông chưa bao giờ nghĩ sẽ có được trong đời.

Bao nhiêu năm, qua bà Hồng vẫn giữ gìn số tranh ấy gần như nguyên vẹn trong căn hộ tập thể số 10 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội). Nhiều người thấy bà Hồng sống đạm bạc từng khuyên bà bán đi một số bức tranh để sửa sang nhà cửa, trang trải cuộc sống nhưng thời gian đó bà nhất định bà không chịu bán.

Tuy nhiên, những ngày tháng cuối đời, khi đối diện với căn bệnh ung thư, bà đã không còn cách nào khác phải bán đi một vài bức tranh để có kinh phí thực hiện di nguyện của mình. Sau khi mua căn nhà khang trang ở Hồ Tây và đưa toàn bộ tranh của ông về đó để bảo quản, bà thực hiện được một nửa tâm nguyện của mình. Điều bà mong mỏi nhất là sẽ tổng hợp được toàn bộ tranh của ông lại để in thành một cuốn sách.

Trước khi kết thúc tiểu sử Trần Văn Cẩn, nên nhắc qua về người bạn đời của ông.

Vì quá đam mê hội họa, cho dù bị bố ngăn cấm, cô nữ sinh Trần Thị Hồng nhờ một người bác họ ký vào hồ sơ đăng ký thi vào Trường Mỹ thuật Hà Nội.

Theo bà Hồng, cũng như nhiều nữ sinh khác của trường thời bấy giờ, dù mới chân ướt chân ráo bước vào trường nhưng bà đã nghe khá nhiều câu chuyện “cổ tích” về thầy Hiệu trưởng Trần Văn Cẩn. Đối với thế hệ sinh viên thời bấy giờ, thầy Trần Văn Cẩn không chỉ là một danh họa tài năng nức tiếng Đông Dương mà còn là một người thầy rất đức độ, yêu thương sinh viên và có nếp sống chuẩn mực. Vì lẽ đó mà sự ngưỡng mộ người thầy Hiệu trưởng cứ tăng dần trong cô sinh viên.

Họa sĩ Trần Thị Hồng nhớ lại (Hà Tùng Long, 2016):

“ Thời đó, ông Cẩn nổi tiếng là người có gương mặt có những đường nét hiếm có. Đối với sinh viên mỹ thuật thì gương mặt của ông đặc biệt biểu cảm về tạo hình. Vì lẽ đó mà khi được giao bài tốt nghiệp chuyên ngành điêu khắc, tôi xin được đến nặn tượng chính ông thầy Hiệu trưởng của mình. Khi tôi ngỏ lời với ông, ông vui vẻ nhận lời ngay mà không lăn tăn nghĩ suy gì hết.

“ Khoảng thời gian này, hằng ngày cứ đúng đầu giờ sáng tôi lại có mặt trong phòng của ông, làm những công việc quét dọn, pha trà và đặc biệt là nhặt nhạnh các tác phẩm ông vẽ vương vãi trong phòng làm việc, rồi chờ khi ông rỗi lại nhờ ông làm mẫu để tôi nặn tượng. Trong thời gian này, tôi cũng làm mẫu cho ông ký họa một số bức tranh về tôi”.

Sự đồng điệu của hai tâm hồn yêu nghệ thuật, sự chân thành của tình cảm thầy trò như một sợi dây vô hình nhanh chóng kết nối cô học trò vừa tròn đôi mươi với ông thầy 61 tuổi. Mầm yêu cứ nhú dần lên trong trái tim cô học trò nhỏ khi hằng ngày cô chứng kiến cuộc sống đơn độc và đạm bạc của ông. Cô thấy mình cần phải có bổn phận bù đắp và sưởi ấm trái tim cô đơn mà bao nhiêu năm qua ông một mình chịu đựng. Để rồi, sau bao đêm trằn trọc nghĩ suy khi không thể kìm nén tình cảm đang dâng đầy trong mình, cô học trò 23 tuổi không ngần ngại nói lời: “Thầy ơi, em yêu thầy” trước ông thầy Hiệu trưởng hơn mình đến 36 tuổi.

Mặc dù hơi bất ngờ trước lời tỏ tình đầy chủ động của cô học trò nhưng ông thầy cũng chỉ dám xem đó là một cách thể hiện tình cảm theo kiểu “mỹ thuật” của cô học trò đối với ông chứ không dám nhận lời, vì khoảng cách tuổi tác giữa hai người quá lớn. Bà đang trong độ tuổi tìm kiếm cuộc đời, còn ông thì đã ở vào độ xế chiều. Làm sao bà có thể chia sẻ được gánh nặng năm tháng ông đang mang? Họa sĩ không muốn bà phải hy sinh tuổi xuân vì mình. Tuy nhiên, sự chân tình của bà, những việc làm thầm lặng của bà cảm mến được ông khiến ông can đảm bước qua dư luận để gắn kết cuộc đời mình với bà.

Thực ra, dù phải vượt qua khá nhiều rào cản để hai trái tim chung nhịp với nhau nhưng thời kỳ đầu bà Hồng vẫn không dám dọn về ở chung với họa sĩ Trần Văn Cẩn vì dư luận quá gay gắt. Cả người trong nhà lẫn người đời vẫn không tin tình yêu giữa bà và ông là có thật. Phía gia đình bà khi biết bà có ý định gắn bó cuộc đời ông thầy hơn 36 tuổi thì ra sức phản đối. Thậm chí, sau nhiều lần thuyết phục con gái thay đổi suy nghĩ không thành, bố bà quyết định từ con vì không chịu nổi sự xấu hổ. Riêng gia đình họa sĩ Trần Văn Cẩn thì tìm mọi cách chia rẽ để hai người không đến được với nhau. Nhiều người vẫn nghĩ rằng, bà Hồng đã mượn “vỏ bọc tình yêu” nhằm thỏa mãn mục đích nào đó.

Mặc sóng gió bủa vây, hai trái tim đồng điệu vẫn nắm chặt tay nhau bước qua dư luận. Vì tình yêu dành cho người thầy của mình, bà Hồng sẵn sàng hy sinh tất cả. Nghĩ lại những năm tháng ấy, bà Hồng nghẹn ngào trong nước mắt: “Lúc tôi chủ động tỏ tình với ông, tôi hiểu vì sao tôi yêu ông nhưng tôi không hiểu vì sao chúng tôi lại có thể vượt qua được những ánh mắt cay nghiệt của người đời nhẫn nhục đến thế?”.

Bà Hồng chia sẻ rằng, khi bà quyết định vượt qua tất cả để dọn đến sống chung với ông trong căn hộ tập thể ở số 10 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội) năm 1971 là khi bà không thể chịu nổi cảnh hàng ngày ông phải lo toan mọi việc trong đơn độc. Từ đi chợ, cơm nước, dọn dẹp, giặt giũ, làm việc… Về sống chung nhưng với ông nhưng khi nhập hộ khẩu vào nhà, bà phải mang danh nghĩa là… cháu ruột chứ không phải là vợ vì lúc đó cả hai vẫn chưa thể đăng ký kết hôn.

Nhớ lại những tháng ngày hạnh phúc khi mới “góp gạo thổi cơm chung”, nước mắt bà Hồng cứ lăn dài trên má. Nước mắt của nhớ thương và tiếc nuối như đưa bà chìm trong bao hoài niệm đẹp đẽ của tình yêu. Những tháng ngày đó, ông luôn ngập chìm trong hạnh phúc vì quá nửa đời người ông mới có được một gia đình đúng nghĩa. Hạnh phúc tuy muộn màng nhưng lại khiến cho đời sống của ông thực sự thăng hoa. Ông vẽ rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trong thời gian này. Còn bà, một cô bé mồ côi vốn thiếu hơi ấm gia đình từ khi còn rất bé, như được sống trong một giấc mơ. Bà đã làm được cái việc mang trái tim xanh trẻ của mình để xua tan đi những u buồn, lạnh lẽo trong cuộc đời ông, nhưng cũng là ươm lên trong tâm hồn mình những mầm chồi hạnh phúc.

Bà Hồng chia sẻ (Hà Tùng Long, 2016):

“ Cuộc sống thời đó của chúng tôi đạm bạc lắm. Một bữa ăn chỉ có vài cọng rau muống, dăm miếng đậu phụ luộc và một ít lạc rang, nhưng lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc vì đi đâu cũng có nhau. Mỗi lần ông đi công tác xa ông lại đưa tôi đi theo để tìm nguồn cảm hứng sáng tác. Những lúc ông cần, tôi lại làm mẫu cho ông vẽ tranh, nặn tượng. Tôi không nhớ trong cuộc đời tôi đã làm mẫu cho ông vẽ tranh bao nhiêu lần nhưng dường như trong hàng trăm bức tranh vẽ hình thiếu nữ, bức nào ông vẽ cũng có bóng dáng của tôi trong đó”.

Bà Hồng kể, họa sĩ Trần Văn Cẩn là một người rất tinh tế. Ông chăm sóc và chiều chuộng bà hết mực. Bà còn nhớ, vào những năm Mỹ đánh phá miền Bắc, vì sợ bà nguy hiểm ông phải đưa bà lên tận Chùa Tây Phương sơ tán. Đến khi trở về, không kịp gặp mặt nhau vì ông phải đi công tác nhưng ông vẫn không quên chuẩn bị tem phiếu để sau cánh cửa nhà và dặn dò tỉ mỉ vào một mảnh giấy đặt bên cạnh. Hoặc những lúc bà sáng tác mà thiếu nguyên liệu, ông lại âm thầm nhờ bạn bè đi công tác ở nước ngoài mua về cho bà vẽ.

Có lẽ bởi vậy mà cho đến tận bây giờ đối với bà, ông vẫn là “một người đàn ông vĩ đại, vĩ đại về tất cả, sẽ không bao giờ có người đàn ông nào thứ hai như ông. Chính vì thế mà tôi thấy kiêu hãnh và tự hào, mặc dù ông không còn bên tôi như ngày nào nữa”.

Trong lúc chờ đợi người được ủy quyền thừa hưởng một phần gia sản hội họa của danh họa Trần Văn Cẩn xuất hiện, nhà điêu khắc Trần Thị Hồng bắt tay vào thực hiện phòng tranh trưng bày cho ông. Còn ngôi nhà ông từng ở – số 10 phố Nguyễn Thượng Hiền – được sửa chữa để làm nhà lưu niệm Trần Văn Cẩn.

Để làm được hai việc này, vợ cố họa sĩ Trần Văn Cẩn đành bán tác phẩm của chồng, lấy tiền mua một ngôi nhà trên Phố Lạc Long Quân (Quận Tây Hồ, Hà Nội) làm phòng tranh trưng bày, là nơi lưu giữ và bảo quản hơn 1.000 tác phẩm của danh họa Trần Văn Cẩn.

Bà tâm sự: “Bán tranh là việc… cực chẳng đã với tôi. Nhưng tôi không còn sự lựa chọn. Có tiền trong tay, tôi mới có điều kiện để làm phòng tranh cho ông đến đầu, đến đũa. Mỗi buổi sáng, tôi mở tranh ông ra xem là thấy vui. Nhưng tôi muốn chia sẻ niềm vui ấy đến với mọi người”.

Nhà điêu khắc Trần Thị Hồng cũng nhắc lại nhiều lần rằng, bà chỉ có ý định làm phòng tranh trưng bày, chứ không có ý định làm bảo tàng tranh Trần Văn Cẩn. Sức khỏe hạn chế, cộng với nhiều thủ tục giấy tờ phải hoàn thiện, bà sợ mình sẽ không còn đủ thời gian để hoàn thiện khối lượng công việc lớn lao này.

Còn lý do tại sao không lấy luôn ngôi nhà số 10 Nguyễn Thượng Hiền làm phòng tranh trưng bày và nhà lưu niệm cho họa sĩ Trần Văn Cẩn, vợ cố danh họa cho biết, trong thâm tâm, bà không muốn có sự thay đổi nào trong căn phòng tuy tuềnh toàng, đơn sơ, có hơi bừa bộn với giá vẽ, khung tranh, với những mẩu vụn của gỗ, của sành sứ. Ngôi nhà là nơi đã lưu giữ đầy ắp kỷ niệm giữa họa sĩ Trần Văn Cẩn và nhà điêu khắc Trần Thị Hồng. Dù đau xót phải bán tranh của ông để lấy tiền mua một căn nhà khác, bà vẫn đành lòng, cốt sao giữ lại trọn vẹn kỷ niệm ở căn nhà cũ.

Đến nay, số tranh sơn dầu của danh họa Trần Văn Cẩn đã được bà chuyển từ phố Nguyễn Thượng Hiền về ngôi nhà mới tại Quận Tây Hồ, được lồng khung, treo ngay ngắn trên tường. Số tranh giấy còn lại được bà xếp trong những ngăn kéo tủ. Tuy điều kiện bảo quản còn thua xa quốc tế, nhưng nhà điêu khắc Trần Thị Hồng vẫn rất vui mừng với thành quả của mình. Bà cho rằng, đến nay đã thỏa được một phần mong muốn của chồng mình.

Ngoài ý định tổ chức triển lãm thêm cho họa sĩ Trần Văn Cẩn, bà Hồng còn có mong muốn in thành sách các tác phẩm hội họa của cố họa sĩ và chuyển giao các tác phẩm cho cơ quan Nhà nước, tuy nhiên cả 2 dự định sau đều không thực hiện được.

Năm 2017 bà Hồng mất, một đại tá về hưu cùng nhóm học sinh khóa đầu tiên hệ sơ trung Trường Mỹ thuật có nhiều kỷ niệm với họa sĩ Trần Văn Cẩn đứng ra phối hợp với cơ quan chức năng làm công tác kiểm kê, niêm phong bảo vệ các bức tranh. Số tranh sau đó trở thành bộ sưu tập của một nhà sưu tầm tư nhân trong nước.

Toàn bộ tiền thu được từ việc bán tranh, căn cứ vào luật pháp, thuộc về 8 người em cùng cha khác mẹ của bà Hồng ở Đồng Tháp – những người mà thậm chí, lúc còn sống ông Cẩn và họ chưa từng gặp mặt. Họ cũng từ chối đề nghị của các học trò họa sĩ là trích một phần số tiền để lập thành một quỹ mang tên danh họa, nhằm tôn vinh ông cũng như khuyến khích những tài năng nghệ thuật. (Hải An, 2019)

Nguồn tham khảo và đọc thêm

An Ngọc (2015). “Truyện Kiều” dưới góc nhìn của các danh họa hàng đầu Việt Nam. https://www.vietnamplus.vn/truyen-kieu-duoi-goc-nhin-cua-cac-danh-hoa-hang-dau-viet-nam/355063.vnp

Bùi Thị Thanh Mai (2018). Bình phong sơn mài hai mặt “Thiếu nữ trong vườn” và “Phong cảnh”. http://thegioidisan.vn/vi/binh-phong-son-mai-hai-mat-thieu-nu-trong-vuon-va-phong-canh.html

Đào Duy Anh (biên tập) (2020). Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du. Nhà Xuất bản Thế giới tái bản. Tuyển tập kèm 11 bức tranh của 11 họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tên tuổi nhất nửa đầu thế kỷ 20: Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Tôn Thất Đào, Phạm Hậu, Lê Đức Lệ, Nguyễn Tường Lân, Lương Xuân Nhi, Lưu Văn Sin Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, và Nguyễn Văn Tỵ.

F.A.M. (2019a). Trần Văn Cẩn – Cháu Thúy Nga. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/tran-van-can-chau-thuy-nga/

F.A.M. (2019b). Nguyễn Tường Lân – Làng chài. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/nguyen-tuong-lan-lang-chai/

Hà Nhì (2019). Tranh sơn mài “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của Nguyễn Gia Trí hiện trị giá bao nhiêu? Và mấy ý kiến xung quanh thảm họa làm hỏng tranh Nguyễn Gia Trí. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/tranh-son-mai-vuon-xuan-trung-nam-bac-cua-nguyen-gia-tri-hien-tri-gia-bao-nhieu-va-may-y-kien-xung-quanh-tham-hoa-lam-hong-tranh-nguyen-gia-tri/

Hà Thanh (2005). Mỹ thuật ngày đầu cách mạng. https://nhandan.vn/di-san/my-thuat-ngay-dau-cach-mang-410652

Hà Tùng Long (2016). Chuyện tình “kỳ lạ” của danh họa Trần Văn Cẩn với người vợ kém 36 tuổi. https://dantri.com.vn/van-hoa/chuyen-tinh-ky-la-cua-danh-hoa-tran-van-can-voi-nguoi-vo-kem-36-tuoi-20160512152130672.htm

Hải An (2019). Người “đi theo mép biển”. https://cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/Nguoi-di-theo-mep-bien-i538332/

Hoàng Anh (2019). Gặp lại ký ức. http://tapchimythuat.vn/chuyen-ben-gia-ve/gap-lai-ky-uc/

Hoàng Hưng (2017). Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật. http://vanviet.info/tu-lieu/nguyen-gia-tr-bac-dao-su-cua-son-mi-nghe-thuat/

Hồng Hà (2021). Phát động cuộc thi thiết kế Logo, nhãn hiệu công nhận và bộ nhận diện “Nghệ thuật sơn mài Việt Nam”. https://bvhttdl.gov.vn/phat-dong-cuoc-thi-thiet-ke-logo-nhan-hieu-cong-nhan-va-bo-nhan-dien-nghe-thuat-son-mai-viet-nam-20210716170223602.htm

Hương Thủy (2019). Tác phẩm “Mục đồng chăn trâu thổi sáo” trở về quê hương sau thời gian chu du ở xứ người. https://anninhthudo.vn/tac-pham-muc-dong-chan-trau-thoi-sao-tro-ve-que-huong-sau-thoi-gian-chu-du-o-xu-nguoi-post394435.antd

Lam Thu (2016). Vẻ đẹp thiếu nữ Việt xưa trong các bức họa nổi tiếng. https://vnexpress.net/ve-dep-thieu-nu-viet-xua-trong-cac-buc-hoa-noi-tieng-3355508.html

Lê Bản (2012). Tranh Việt Nam tại cuộc đấu giá mùa thu Sotheby’s. https://doanhnhansaigon.vn/doi-song-van-hoa/tranh-viet-nam-tai-cuoc-dau-gia-mua-thu-sotheby-s-1042048.html

Lê Công Sơn (2019). Không thể phục hồi nguyên trạng bức tranh bảo vật quốc gia “Vườn Xuân Trung Nam Bắc. . https://thanhnien.vn/van-hoa/khong-the-phuc-hoi-nguyen-trang-buc-tranh-bao-vat-quoc-gia-vuon-xuan-trung-nam-bac-1076553.html

Lê Đại Chúc (2021). Nguyễn Gia Trí – “Tôi là nhà tiên tri”. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/nguyen-gia-tri-toi-la-nha-tien-tri/

Lê Hiếu (2019). Lịch sử hội họa hiện đại và hậu hiện đại tại Việt Nam. https://tgpsaigon.net/bai-viet/lich-su-hoi-hoa-hien-dai-va-hau-hien-dai-tai-viet-nam-44183

Lucas Lương (2018). ‘Em Thúy’ – Một tác phẩm hội họa đẹp về tuổi thơ trong sáng và hồn nhiên của mỹ thuật Việt Nam. https://dkn.news/van-hoa/nghe-thuat/em-thuy-mot-tac-pham-hoi-hoa-dep-ve-tuoi-tho-trong-sang-va-hon-nhien-cua-my-thuat-viet-nam.html

Mai Anh Tuấn (2019). “Sáng tạo” của Nguyễn Gia Trí. https://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc-thuong-thuc/kinh-thi-viet-nam/20190104114316181p160c921.htm

Mai Nhật (2019). Bảo vật quốc gia ‘Vườn xuân Trung Nam Bắc’ bị nghi hỏng nặng sau tu sửa. https://vnexpress.net/bao-vat-quoc-gia-vuon-xuan-trung-nam-bac-bi-nghi-hong-nang-sau-tu-sua-3913954.html

Mai Thụy (2019). Bảo vật Vườn xuân Trung Nam Bắc: Vệ sinh phá hỏng tác phẩm! https://tuoitre.vn/bao-vat-vuon-xuan-trung-nam-bac-ve-sinh-pha-hong-tac-pham-2019042309180043.htm

Minh Thi (2019). Sau một đêm, tranh “Bảo vật quốc gia” chẳng khác hàng nhái. https://laodong.vn/van-hoa/sau-mot-dem-tranh-bao-vat-quoc-gia-chang-khac-hang-nhai-731866.ldo

Ngô Hương Sen (2021). Đường về nhà không còn xa. http://antgct.cand.com.vn/So-tay/Duong-ve-nha-khong-con-xa-638748/

Ngô Kim Khôi (2009). trường cao-đẳng mỹ-thuật đông-dương (1925-1945) (l’école des beaux-arts de l’indochine). https://damau.org/6284/truong-cao-dang-my-thuat-dong-duong-1925-1945-l-ecole-des-beaux-arts-de-l-indochine

Nguyên Khánh (2019). Kết luận mức độ hư hại của bảo vật quốc gia ‘Vườn xuân Trung Nam Bắc’. https://tienphong.vn/ket-luan-muc-do-hu-hai-cua-bao-vat-quoc-gia-vuon-xuan-trung-nam-bac-post1107727.tpo

Nguyễn Đình Đăng (2013). Có đúng là sơn ta có chất lượng cao nhất? http://soi.today/?p=106376

Nguyễn Hải Yến (2016). Alix Aymé có phải là cô giáo của danh họa Nguyễn Gia Trí? https://tiasang.com.vn/-van-hoa/Alix-Ayme-co-phai-la-co-giao-cua-danh-hoa-Nguyen-Gia-Tri–10289

Nguyễn Hải Yến (2020). Diện mạo thực tranh sơn mài Nguyễn Gia Trí. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/dien-mao-thuc-tranh-son-mai-nguyen-gia-tri/

Nguyễn Quang Phòng (1993). Các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhà Xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội.

Nguyễn Văn Cường (2016). Hội họa Việt Nam giai đoạn 1925-1945 nhìn từ góc độ văn hóa; Luận án Tiến sĩ Văn hóa học. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

nhandan.vn (2016). Phục hưng uy tín cho hội họa Việt. https://nhandan.vn/tieu-diem-hangthang/phuc-hung-uy-tin-cho-hoi-hoa-viet-271018

Phạm Công Luận (2020). Tản mạn chuyện mua bán tranh ở Sài Gòn xưa. http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/tan-man-chuyen-mua-ban-tranh-o-sai-gon-xua/

Phạm Long (2015). Tranh Nguyễn Gia Trí giả: quá đắt! Tranh Nguyễn Gia Trí thật: quá rẻ! http://soi.today/?p=183838

Phạm Thành Hương (2018). Cái hay của bức tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ”. http://hoimythuathanoi.com/ci-hay-ca-bc-tranh-thiu-n-bn-hoa-hu-1-2-138426.html

Phương Mai (2019). Bảo vật ‘Vườn Xuân Trung Nam Bắc’ bị hư hại: Trách nhiệm thuộc về ai? https://www.vietnamplus.vn/bao-vat-vuon-xuan-trung-nam-bac-bi-hu-hai-trach-nhiem-thuoc-ve-ai/567372.vnp

Quang Thi (2014). Từ chuyện phục chế tranh Nguyễn Gia Trí. https://tuoitre.vn/tu-chuyen-phuc-che-tranh-nguyen-gia-tri-650920.htm

Quang Thi (2015). Bức tranh Giáng Sinh nổi tiếng nhất. https://tuoitre.vn/buc-tranh-giang-sinh-noi-tieng-nhat-viet-nam-1027234.htm

Quang Việt (no date). Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. http://kmvietnameseart.com/truong-cao-dang-thuat-dong-duong/

Saigoneer (2018). Vietnamese silk painting from 1935 sold for €440,000 at Paris auction. https://saigoneer.com/saigon-music-art/14810-vietnamese-silk-painting-from-1935-sold-for-%E2%82%AC440,000-at-paris-auction

Shinstyle (2019). Bản phục chế kỹ thuật số tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ. https://danhhoa-tongocvan.blogspot.com/2020/05/ban-phuc-che-ky-thuat-so-tranh-thieu-nu.html

T.T. (no date). Người dành cả cuộc đời cho mỹ thuật sơn mài. http://ape.gov.vn/nguoi-danh-ca-cuoc-doi-cho-my-thuat-son-mai-d259.th

Taylor, N. (2014). Sự thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và chính sách hội họa tại Việt Nam thời thuộc địa, 1925-1945. http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/9366-su-thanh-lap-truong-cao-dang-my-thuat-dong-duong-va-chinh-sach-hoi-hoa-tai-viet-nam-thoi-thuoc-dia,1925-1945

Th.Hà & U.Ly (2004). Em Thuý “khoẻ” lại. https://tuoitre.vn/em-thuy-khoe-lai-39638.htm

Thanh Xuân (2019). Nhà đấu giá Sotheby’s bị tố tuồn tranh giả của Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân lên sàn quốc tế. https://anninhthudo.vn/nha-dau-gia-sotheby-s-bi-to-tuon-tranh-gia-cua-tran-van-can-to-ngoc-van-len-san-quoc-te-post406790.antd

Thiên Điểu (2018). Tranh Việt muốn về nước cũng khó, muốn hiến tặng bị từ chối. https://tuoitre.vn/tranh-viet-muon-ve-nuoc-cung-kho-muon-hien-tang-bi-tu-choi-20181102092123047.htm

Thiên Điểu (2020a). ‘Phiên bản’ Hội đình Chèm của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ đạt mức giá kỷ lục gần 1 triệu đô tại Pháp. https://tuoitre.vn/phien-ban-hoi-dinh-chem-cua-hoa-si-nguyen-van-ty-dat-muc-gia-ky-luc-gan-1-trieu-do-tai-phap-20200923121632629.htm

Thu Hằng (2018). “Em Thúy” – Ngày ấy, bây giờ… https://nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/nguoi-ha-noi/819535/em-thuy—ngay-ay-bay-gio

Thụy Khuê (2019). Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng. http://thuykhue.free.fr/TLVD/NguyenGiaTri-3/ThuNguyenGiaTri-3.html

Trang Thanh Hiền (2021). Những bức tranh làm thay đổi lịch sử mỹ thuật Việt Nam. https://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/di-san-my-thuat-san-khau/nhung-buc-tranh-lam-thay-doi-lich-su-my-thuat-viet-nam-771718.html

Trần Mỹ Hiền (2020). Vấn nạn tranh giả, tranh chép. https://cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Van-nan-tranh-gia-tranh-chep-i585680/

Tuyết Loan (2019). Tác phẩm “Vườn xuân Trung Nam Bắc” bị hư hại khoảng hơn 30%. https://nhandan.vn/di-san/tac-pham-vuon-xuan-trung-nam-bac-bi-hu-hai-khoang-hon-30-357440/

Văn Bảy (2018). 5 tranh Việt vừa thu về hơn 60 tỷ đồng tại Hong Kong (Trung Quốc). https://o.voz.vn/showthread.php?t=7413007

Văn Bảy (2019a). ‘Khát vọng Việt Nam’: Top 7 tranh Việt đắt giá nhất 2018. https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/khat-vong-viet-nam-top-7-tranh-viet-dat-gia-nhat-2018-n20190125164751073.htm

Văn Bảy (2019b). Trí – Lân – Vân – Cẩn: Những tiếng ca tự tôn về bản sắc dân tộc. https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/tri-lan-van-can-nhung-tieng-ca-tu-ton-ve-ban-sac-dan-toc-n20190618065241837.htm

Văn Bảy (2019c). Vì sao tranh Tô Ngọc Vân bất ngờ vượt ngưỡng ‘triệu đô’? https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/vi-sao-tranh-to-ngoc-van-bat-ngo-vuot-nguong-trieu-do-n20190530061850068.htm

Wikipedia_Nguyễn Gia Trí. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Gia_Tr%C3%AD

Wikipedia_Nguyễn Tường Lân. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_T%C6%B0%E1%BB%9Dng_L%C3%A2n

Wikipedia_Tô Ngọc Vân. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4_Ng%E1%BB%8Dc_V%C3%A2n

Ý Ly (2021). Những bức tranh triệu USD của mỹ thuật Việt. https://vnexpress.net/nhung-buc-tranh-trieu-usd-cua-my-thuat-viet-4265145.html

* * *

Ghi chú: Bài này vẫn còn mở, sẽ được cập nhật khi có thêm thông tin.

___________________________
Diệp Minh Tâm, tháng 11-2021

.

14 thoughts on “Hội họa Việt Nam thế kỷ 20 – Bài 2: Bộ Tứ Trí – Vân – Lân – Cẩn

Leave a comment